Tiểu luận Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam - pdf 13

[h2:1g366w02]Download Tiểu luận Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam miễn phí[/h2:1g366w02]



MỤC LỤC
I. Mở đầu
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc (CM GPDT)
1. CM GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường Cách mạng vô sản (CMVS).
2. CM GPDT muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
3. CM GPDT là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công- nông.
4. CM GPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
5. CM GPDT phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
III. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam (VN)
1. Giai đoạn từ năm 1911-1930: 20 năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ cộng sản Quốc tế và người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Giai đoạn từ 1930 đến 1945 : Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh lãnh đạo Đảng chuẩn bị về mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
IV.Kết luận



Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho[h3:1g366w02]Tóm tắt nội dung:[/h3:1g366w02] trọng”.
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa – vì độc lập tự do,làm cho khả năng tiến hành chiến tranh mhân dân trở thành hiện thực, làm cho nhân dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và kháng chiến thắng lợi, đáng thắng hai đế quốc hùng mạnh làm nên tháng lợi vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
4. CM GPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng CM thuộc địa phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc thắng lợi. Luận cương về phong trào CM ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nêu ở đại hội VI quốc tế cộng sản 1928: "chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc GPDTcác thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến". Ý kiến này đã giảm tính chủ động, sáng tạo của CM thuộc địa. Ngay từ đại hội V quốc tế cộng sản (1924), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh GCVS ở các nước đi xâm lược thuộc địa phải gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa..." Dựa vào quan điểm của Mác, "sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân". Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: "công cuộc giải phóng anh, em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em." Nguyễn Ái Quốc nhận thức thuộc địa là khâu yếu của CNĐQ và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngày từ năm 1924, Người đã nói: CM thuộc địa không những không phục thuộc vào CMVS ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước"..."họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở Phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Đây là cống hiến sáng tạo của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac-Lenin. CM VN đã chứng minh luận điểm của Hồ Chí Minh là đúng.
5.CM GPDT phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.
a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân , tự bản thân nó đã thành một hành động bạo lực của kẻ mạnh với kẻ yếu.Chưa đè bẹp đựoc ý chí xâm lựoc của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập là con đường cách mạng bạo lực.
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực của cách mạng cũng là bạo lực của quần chúng.Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Trong chiến tranh cách mạng, lực lượng đấu tranh vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của chúng.Nhưng đấu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị. Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
Xuất phát từ tình yêu thương con người,quý trọng sinh mạng con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu nhất. Người tìm mọi cách ngăn chăn xung đột vũ trang, tìm cách giải quyết bằng hoà bình, chủ động đàm phán, thưong lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là phải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường,chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hoà bình. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho Chính Phủ và người dân Pháp cho các chính phủ các nhà hoạt động chính trị, văn hóa các nước vừa tố cáo cuộc chiếm tranh xâm lược của thực dân Pháp vừa kêu gọi đàm phán hoàn bình.
Tư tưỏng bạo lực cách mạng và tư tưỏng nhân đạo hoà bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Người chủ trương yêu nứoc, thương dân, yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý,tranh thủ hoà bình giải quyết xung đột, nhưng khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi nghĩ và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hoà bình, vì độc lập tự do.
b) Phưong châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nói : “Địch muốn tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì địch nhất định thua,ta nhất địng thắng”.Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Kháng chiến phải trường kỳ vì đất ta hẹp, dân ta ít, nước ta cùng kiệt ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của toàn dân.
Trong kháng chiến chông Mỹ, cứu nước, Người khẳng định:” Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hay lâu hơn nữa.Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn,to đẹp hơn!”
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với sự giúp đỡ của quốc tế là một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc, đông thời ra sức vận động, trang thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả cả về vật chất lẫn tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để kháng chiến thắng lợi.
III.Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
1.Giai đoạn từ năm 1911-1930: 20 năm hoạt động sôi nổi, gian khó, dũng cảm và sáng tạo với tư cách một chiến sĩ cộng sản Quốc tế và người sáng lập ra đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong những năm đầu hoạt động cách mạng cho đến 1930. Nguyễn Ái Quốc đã có vai trò rất lớn đối với sự nghiệp CM GPDT nước nhà. Vai trò đó được thể hiện ở các mặt sau đây: Trước hết, khi rời Tổ Quốc. Người đã đi đến rất nhiều nước trên thế giới ở cả Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi nhưng ở đâu Người cũng hòa mình với cuộc sống của những người dân lao động cho nên Người rất thấu hiểu nỗi khổ của họ. Những chuyến đi đó giúp Người rút ra một kết luận rằng: Trên thế giới này, ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng đều độc ác, ở đâu những người lao động cũng đều bị áp bức bóc lột dã man; trên thế giới này con người có nhiều màu da khá...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status