Những vướng mắc khi áp dụng Điều 202 của Bộ luật Hình sự - pdf 13

Download Những vướng mắc khi áp dụng Điều 202 của Bộ luật Hình sự miễn phí



Điểm c, Khoản 2, Điều 202 BLHS có quy định về tình tiết gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Tình tiết này chưa được giải thích rõ ràng nên việc áp dụng cũng có những tranh cãi khác nhau. Vì vậy, cần giải thích rõ như thế nào là bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Trên thực tế, có những trường hợp bỏ chạy vì lý do bị đe doạ đến tính mạng nhưng lại đến cơ quan công an gần nhất để khai báo, thì cũng là bỏ chạy nhưng không phải để trốn tránh trách nhiệm. Như vậy, tình tiết này cần được giải thích như sau: “Bỏ chạy vì lý do bị đe doạ đến tính mạng mà đến trình báo ngay với cơ quan công an nơi gần nhất; cung cấp thông tin xác thực về vụ tai nạn cho cơ quan công an, hay không đến trình báo ngay sau khi bỏ chạy nhưng chứng minh được có sự ảnh hưởng của yếu tố khách quan, thì không phải là để trốn tránh trách nhiệm”.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-37759/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

Những vướng mắc khi áp dụng Điều 202 của Bộ luật Hình sự
Trong những năm qua, cả nước đã có nhiều nỗ lực trong công tác quản lý giao thông đường bộ (GTĐB) nhằm bảo đảm an toàn GTĐB. Tuy nhiên, số hành vi vi phạm các quy định về an toàn GTĐB, các vụ tai nạn GTĐB, số người chết và bị thương do tai nạn GTĐB vẫn còn cao. Tình trạng này xuất phát từ  nhiều nguyên nhân như hạ tầng cơ sở của nước ta còn chưa theo kịp nhu cầu tham gia giao thông của người dân, ý thức pháp luật của người dân còn kém… Và còn có cả nguyên nhân từ  những vướng mắc trong việc áp dụng Điều 202 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 - BLHS) về Tội phạm vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB. 
Điều 202 của BLHS quy định: 
“1. Người nào điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hay gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hay phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hay bằng lái xe theo quy định;
b) Trong khi say rượu hay say do dùng các chất kích thích mạnh khác;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hay cố ý không cứu giúp người bị nạn; 
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hay hướng dẫn  giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Quy định trên của BLHS là đã đầy đủ, nhưng vẫn có thể gây ra những cách hiểu khác nhau dẫn đến khó khăn cho công tác xét xử. Thực tiễn xét xử ở các Toà án cho thấy, Điều 202 còn những vướng mắc sau:
1. Sử dụng xe máy chuyên dùng vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hay gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác có thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 202 BLHS?
Theo quy định tại Khoản 17, Điều 3 của Luật GTĐB năm 2008, phương tiện GTĐB gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (khoản 12, Điều 3 của Luật GTĐB năm 2001 cũng quy định tương tự). Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ-moóc hay sơ-mi rơ-moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự. Còn xe máy chuyên dùng gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia GTĐB (Khoản 18, 19, 20 của Luật GTĐB năm 2008). Như vậy, theo Luật GTĐB, phương tiện GTĐB không bao gồm xe máy chuyên dùng. Trong khi đó, khoản 1, Điều 202 của BLHS quy định là tội phạm đối với người nào điều khiển phương tiện GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng hay gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác. Do sự khác nhau này, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tai nạn giao thông phát sinh một số vướng mắc liên quan đến người điều khiển xe chuyên dùng vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hay tài sản của người khác.
Trong thực tiễn, có hai quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu người điều khiển xe máy chuyên dùng gây tai nạn giao thông làm chết người thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vô ý làm chết người (Điều 98, BLHS); nếu gây thương tích với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội vô ý gây thương tích hay gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108, BLHS). Truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội này bởi xe máy chuyên dùng là phương tiện chỉ được sử dụng vào các công việc cụ thể (thi công, phục vụ sản xuất nông nghiệp), không có chức năng vận tải người và hàng hoá. Vì vậy, Luật GTĐB không xem đây là phương tiện GTĐB. Do đó, nếu người điều khiển xe máy chuyên dùng gây chết người, gây thương tích nặng sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202.
Quan điểm khác cho rằng, người điều khiển xe máy chuyên dùng cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về an toàn GTĐB. Nếu người điều khiển xe máy chuyên dùng vi phạm các quy định của pháp luật về an toàn GTĐB gây tai nạn cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202.
Theo chúng tôi, quan điểm thứ hai là hợp lý hơn cả. Bởi lẽ, bất kỳ phương tiện nào tham gia lưu thông trên đường bộ vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện GTĐB gây thiệt hại cho tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hay tài sản của người khác thì đều phải chịu trách nhiệm về hành vi này. Nhưng nếu theo quy định của Khoản 3, Điều 17 của Luật GTĐB, đối chiếu với Điều 202 của BLHS, người điều khiển xe máy chuyên dùng khó thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 nếu gây tai nạn làm chết người hay gây thương tích nặng cho người khác. Để khắc phục bất cập này, chúng tui cho rằng, khoản 3, Điều 17 của Luật GTĐB nên được sửa đổi thành: “Phương tiện GTĐB gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ, xe máy chuyên dùng”.
2. Tình tiết không có giấy phép lái xe hay bằng lái xe theo quy định
Tình tiết này được quy định tại điểm a, Khoản 2, Điều 202. Tình tiết này khi áp dụng trên thực tế có một số trường hợp dẫn đến cách hiểu không thống nhất, áp dụng pháp luật rất khác nhau, cụ thể:
Trường hợp thứ nhất, người điều khiển phương tiện GTĐB gây ra hậu quả chết người trong khi họ đang bị mất bằng lái xe (có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) thì có trường hợp Toà án áp dụng tình tiết này đối với bị cáo, có trường hợp Toà án lại không áp dụng mà chỉ xét xử như người vi phạm theo khoản tương ứng mà điều luật quy định. 
Ví dụ, A bị mất giấy phép lái xe. Việc A mất giấy phép lái xe được cơ quan có thẩm quyền xác nhận và A đang chờ thi lại để được cấp giấy phép lái xe mới. Tuy nhiên, trong thời gian này, A lái xe mô tô có dung tích xi lanh 100 cm3 gây tai nạn giao thông làm chết B. Lỗi trong vụ tai nạn thuộc về A do chạy quá tốc độ quy định. Trong trường hợp này, có Toà án đã áp dụng điểm a, Khoản 2, Điều 202 đối với A, nhưng có Toà án lại đưa ra quan điểm là nên xét xử A theo Khoản 1 của Điều 202.
Trường hợp thứ hai, một người đã được học tập trung tại trường đào tạo lái xe, đã thi sát hạch xong (đã đỗ), đang chờ cấp bằng lái nhưng đã điều khiển phương tiện tham gia giao thông gây hậu quả nghiêm trọng. Trong trường hợp này, có Toà án chấp nhận người này đã được phép lái xe, có Toà án cho rằng họ chưa được phép vì chưa có giấy phép lái xe.
Theo Điều 59 của Lu
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status