Tiểu luận Đương sự – chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự - pdf 13

Download Tiểu luận Đương sự – chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự miễn phí



Viện kiểm sát tham gia phiên tòa “đối với những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại” (khoản 2 Điều 2 ) cụ thể là những vụ án do tòa án thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 85 hay những vụ án mà tòa án tự mình tiến hành một hay một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 2 Điều 88, điểm b khoản 1 Điều 92. Khi đó, tòa án nhân dân phải chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu (trừ trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp với tòa án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm và Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng nghị theo theo thủ tục giám đốc thẩm hay theo thủ tục tái thẩm)[25] trong một thời gian luật định để tiến hành xem xét.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38061/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

là có căn cứ và hợp pháp”. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông báo về việc khởi kiện của nguyên đơn“Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1 Điều 175). Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hay cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó “Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hay nộp không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hay không nộp đầy đủ đó…” (khoản 1 Điều 84 ). Tại phiên tòa sơ thẩm “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm “đương sự, Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hay viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình. Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ.
2.2. Đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
Một trong những lý do để xếp hai hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cùng một giai đoạn chứng minh là vì không thể tách bạch một cách cơ học rõ ràng từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan xen, diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi không những phải có hệ thống chứng cứ đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách toàn diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các yếu tố “tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ án.
Thông thường, hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán phụ trách giải quyết vụ án hay các thành viên của hội đồng xét xử và phải tuân theo nguyên tắc đánh giá chứng cứ được quy định tại Điều 96 BLTTDS:
“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị của từng chứng cứ.”
Quy định này là cần thiết vì tòa án là cơ quan phán xử đòi hỏi việc xem xét phải thật sự công bằng và không thiên vị bên nào. Nhưng để tòa án nhận biết được nhanh nhất, khách quan nhất thì các đương sự và một số chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của đương sự. Điều này thể hiện tính tích cực của đương sự trong hoạt động này.
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự, đương sự có một số quyền như:
Đương sự có quyền “được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hay do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được biết này, đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương.
Tại phiên tòa sơ thẩm hay phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều 199, 200, 201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày quan điểm ý kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc biệt BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận giữa các đương sự, đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của đương sự trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng minh. Đây luôn là phần hấp dẫn nhất của một phiên tòa khi mà các bên được tự do thể hiện ý chí, quan điểm của mình, vận dụng những hiểu biết pháp lý và kinh nghiệm tố tụng để bảo vệ quan điểm đó. Sự tranh luận này có hệ quả trực tiếp đến phán quyết của tòa án giải quyết vụ việc.
2.3. Vai trò chứng minh nổi bật của đương sự trong sự so sánh với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh
Chủ thể của hoạt động chứng minh là những người bằng hành vi của mình tham gia vào quá trình xác minh có hay không những tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối yêu cầu của các bên trong quá trình giải quyết vụ án. Chủ thể của hoạt động chứng minh không chỉ có các đương sự mà còn nhiều người khác như người thay mặt cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác, lợi ích công cộng, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát từ vị trí, vai trò của những chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai trò chứng minh và phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai trò chứng minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đương sự.
* Người thay mặt của đương sự
Người thay mặt của đương sụ trong tố tụng dân sự là người thay mặt cho đương sự trong việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho đương sự. Người thay mặt trong tố tụng dân sự bao gồm người thay mặt theo pháp luật và người thay mặt theo ủy quyền.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì người thay mặt theo pháp luật bao gồm có cha mẹ đối với con chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, người được tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hay theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác (Điều 142 BLDS), ngoài ra cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích của người khác cũng là người thay mặt theo pháp luật cho người được khởi kiện (Điều 73 BLTTDS), người được tòa án chỉ định để thay mặt cho đương sự tham gia tố tụng (Điều 76 BLTTDS).
Người ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status