Tiểu luận Những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện những quy định về tài sản chung và riêng của vợ chồng - pdf 13

Download Tiểu luận Những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện những quy định về tài sản chung và riêng của vợ chồng miễn phí



Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
1. Khi hôn nhân còn tồn tại, trong trường hợp vợ, chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hay có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung; việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Việc chia tài sản chung của vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được pháp luật công nhận.
Thực tiễn áp dụng điều luật này đã nảy sinh rất nhiều vướng mắc:
Thứ nhất, việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hay cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng qui định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần có sự vận dụng linh hoạt hơn. Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hay không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hay yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-38749/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ột chế độ tài sản pháp định, không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, nhưng cũng không ấn định những quy định cấm.
Có thể nói, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là một bước tiến vượt bậc về kỹ năng lập pháp, sau một thời gian áp dụng đã mang lại những thành tựu đáng kể trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, qua theo dõi các vụ án liên quan đến việc tranh chấp tài sản của vợ chồng trên thực tế và tham khảo một số sách báo, em được biết, Luật Hôn nhân và gia đình hiện vẫn còn tồn tại những vướng mắc, bất cập trong những quy định về chế độ tài sản. Trong bài tiểu luận này, em xin được trình bày những hiểu biết của mình về những vướng mắc, bất cập từ đó đưa ra hướng hoàn thiện quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về chế độ tài sản của vợ chồng.
NỘI DUNG
I – NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Những vướng mắc, bất cập và hướng hoàn thiện những quy định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
Căn cứ pháp lý
Tài sản chung của vợ chồng được xác định căn cứ vào sự tồn tại của quan hệ hôn nhân – quan hệ vợ chồng. Khoản 1 Điều 27 quy định: “ Tài sản chung của vợ chồng do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân…”. Theo khoản 7 Điều 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Đây là khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại trước pháp luật. Thông thường, quy định này được áp dụng cho các cặp vợ chồng trong thực tế. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật dân sự và hôn nhân gia đình, trong một số trường hợp cụ thể, việc xác định “thời kỳ hôn nhân” chưa được luật dự liệu, chưa có một văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào quy định và hướng dẫn về vấn đề này. Ví dụ, trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn nhưng đang trong giai đoạn chờ phán quyết của Tòa án thì có được coi là thời kỳ hôn nhân hay không?
Một vấn đề nữa đó là, đối với trường hợp vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mà sau này, vì lý do nào đó mà họ lại trở về, thì việc xác định tài sản chung của vợ chồng rất phức tạp vì pháp luật nước ta chưa quy định cụ thể vấn đề này. Điều 83 Bộ luật dân sự 2005 mới chỉ quy định:
“ Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hay có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hay của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ các trường hợp sau:
Vợ hay chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 78 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
Vợ hay chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế, giá trị tài sản hiện còn.
Trong trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.”
Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định:
“ Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định tại Điều 93 (nay là Điều 83) của Bộ luật dân sự mà vợ hay chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hay chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật”.
Như vậy, ta có thể thấy, pháp luật quy định rất rõ ràng đối với quan hệ nhân thân của một người đã chết mà lại trở về, cụ thể là quan hệ hôn nhân giữa người bị tuyên bố là đã chết đó với người vợ hay chồng của người đó đương nhiên được khôi phục nếu vợ hay chồng của họ chưa kết hôn. Tuy nhiên, pháp luật lại không dự liệu những quy định về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng sau khi quan hệ hôn nhân được khôi phục. Điều này gây ra không ít khó khăn khi áp dụng luật vào giải quyết những trường hợp thực tế:
Thứ nhất, khi Tòa án quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết, quan hệ hôn nhân giữa người đó với vợ hay chồng của họ đương nhiên được khôi phục (nếu người vợ hay chồng đó chưa kết hôn với người khác) nhưng quan hệ tài sản có đương nhiên được khôi phục hay không?
Thứ hai, hôn nhân giữa người bị Tòa án tuyên bố là đã chết nay trở về và vợ, chồng của họ dường như có sự gián đoạn trong khoảng thời gian một người bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Vậy thì, những tài sản do vợ, chồng tạo dựng cùng các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản kể từ khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết đến khi người đó trở về, thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay thuộc khối tài sản riêng của người vợ, chồng đó?
Thứ ba, những hợp đồng mà người chồng, vợ đã ký kết với người khác (người thứ ba) nhưng chưa được thực hiện; các món nợ mà người chồng hay vợ vay của người khác nhằm đáp ứng nhu cầu nuôi dưỡng, giáo dục các con, nghĩa vụ nuôi dưỡng hay cấp dưỡng đối với các thành viên khác trong gia đình thuộc nghĩa vụ chung của vợ chồng theo trách nhiệm liên đới giữa vợ chồng (Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) hay thuộc nghĩa vụ riêng của người vợ, chồng đó?
Một đề xuất nhằm được đưa ra nhằm giải quyết các vấn đề trên của TS. Nguyễn Văn Cừ: Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Điều 83 Bộ luật dân sự của Nhà nước ta nên chỉnh sửa theo hướng: khi phán quyết của Tòa án tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật, quan hệ hôn nhân chấm dứt; kể cả trường hợp sau này, vì lý do nào đó mà người vợ, chồng đã bị tuyên bố chết lại trở về cùng không thể “đương nhiên” phục hồi quan hệ nhân thân được (dù người vợ, chồng kia chưa kết hôn với người khác). Nếu vợ, chồng muốn tái hợp chung sống với nhau, họ phải đăng ký kết hôn theo thủ tục chung. Tức là sẽ phát sinh một quan hệ hôn nhân mới, thời kỳ hôn nhân mới, dù chủ thể vẫn là vợ, chồng đó. Như vậy, chế độ tài sản mới giữa vợ chồng được phát sinh theo luật định, áp dụng trong thời kỳ hôn nhân mới này TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội – 2008, tr. 244
.
Căn cứ vào nguồn gốc tài sản
Một điểm bất cập trong những quy đ
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status