Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản - pdf 13

Download Luận văn Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản miễn phí



MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN 3
1.1. Quan niệm về phá sản 3
1.1.1. Quan niệm về phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới. 3
1.1.2. Quan niệm về phá sản theo pháp luật Việt Nam. 5
1.2. Sự tác động của phá sản và vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường. 10
1.2.1. Sự tác động của phá sản trong nền kinh tế thị trường. 10
1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường. 13
1.3. Các cơ quan tham gia quá trình giải quyết phá sản. 18
1.3.1. Vai trò trung tâm của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết phá sản. 18
1.3.2. Sự giám sát của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết phá sản. 21
CHƯƠNG II. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CHỦ NỢ VÀ CON NỢ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN 23
2.1. Giai đoạn nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản. 23
2.1.1. Giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. 23
2.1.2. Giai đoạn mở thủ tục phá sản. 29
2.1.3. Giai đoạn tổ chức Hội nghị chủ nợ. 35
2.2. Giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh. 38
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. 38
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của con nợ. 41
2.3. Giai đoạn thanh lý tài sản, thanh toán các khoản nợ. 43
2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ. 43
2.3.2. Quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản của con nợ. 44
2.4. Giai đoạn tuyên bố phá sản. 44
CHƯƠNG III. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU TUYÊN BỐ PHÁ SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004 46
3.1. Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. 46
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi có hiệu quả Luật phá sản năm 2004. 50
KẾT LUẬN 58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Xây dựng nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là con đường tất yếu để Việt Nam tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp xây dựng một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước nền kinh tế thị trường đã hình thành và phát triển ở nước ta rất phong phú, đa dạng với nhiều loại hình doanh nghiệp. Bên cạnh đó do sự tác động của các quy luật kinh tế như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu,... trong nền kinh tế nước ta cũng đã nảy sinh nhiều hiện tượng hay quan hệ kinh tế vốn không tồn tại trong cơ chế kế hoạch hóa. Một trong những hiện tượng đó là sự phá sản của các doanh nghiệp.
Khi một doanh nghiệp bị phá sản sẽ kéo theo những hậu quả nhất định như sự xáo trộn trong nền sản xuất, ảnh hưởng đến công ăn, việc làm của người lao động, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Do đó, để đảm bảo, duy trì mối quan hệ hài hòa giữa những lợi ích nêu trên, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ chế pháp lý thống nhất và chặt chẽ.
Ngay từ khi Đảng và Nhà nước xác định chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, đạo luật phá sản đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam đã được ban hành năm 1993 để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh pháp luật đó. Tuy nhiên, trong 10 năm thực hiện Luật phá sản doanh nghiệp 1993 (Luật PSDN (1993) đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Luật phá sản năm 2004 (2004) ra đời tưởng chừng như đã khắc phục được những hạn chế của Luật PSDN 1993. Thế nhưng, sau hơn 3 năm thi hành, số lượng các vụ việc phá sản được thụ lý vẩn ở mức rất khiêm tốn: tổng cộng chỉ có gần 60 hồ sơ được thụ lý ở cả ba khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng. Điều đó không có nghĩa là môi trường kinh doanh trong nước hết sức lành mạnh mà phản ánh rằng các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa tìm thấy ở pháp luật phá sản hiện hành một cơ sở vững chắc để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Bên cạnh đó, tháng 12 năm 2006 Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, chính thức tham gia vào sân chơi thương mại mang tính toàn cầu. Sự hội nhập với các nền kinh tế lớn cũng sẽ kéo theo hệ quả không thể tránh khỏi của quy luật cạnh tranh khắc nghiệt, khi các doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ông Jan Noether, Trưởng thay mặt Phòng thương mại và công nghiệp Đức tại Việt Nam đã phát biểu: “Vào WTO đồng nghĩa với những vụ phá sản hàng loạt và thất nghiệp trong giai đoạn đầu”. Điều này cũng có nghĩa là yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi cho đối tượng này càng trở nên cấp thiết.
Do vậy, nghiên cứu về thủ tục phá sản để làm sáng tỏ quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong nước và môi trường kinh tế quốc tế.
Vì vậy, tui quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản” làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
Luận văn được kết cấu gồm ba chương không kể lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương I: Khái quát chung về phá sản và pháp luật phá sản.
Chương II: Quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ trong thủ tục phá sản.
Chương III: Thực trạng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản.
Với trình độ còn nhiều hạn chế cũng như kinh nghiệm nghiên cứu chưa nhiều cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. tui rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và tất cả các bạn.

tui xin chân thành Thank !



CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN

1.1. Quan niệm về phá sản
1.1.1. Quan niệm về phá sản theo pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ chữ "Ruin" trong tiếng Latinh có nghĩa là "sự kháng tận". Khái niệm này dùng để chỉ sự mất cân đối giữa thu và chi của một doanh nghiệp. Ở Châu Âu khi nói đến phá sản người ta thường dùng danh từ "Bankrupcy" trong tiếng Anh hay "Banqueroute" trong tiếng Pháp. Cả hai danh từ này đều bắt nguồn từ chữ "Bancanetta" của Lamã, có nghĩa là "chiếc ghế bị gãy". Ở thời Lamã các thương gia ở thành phố thường họp nhau lại để xem xét việc làm ăn và công nợ. Người nào mất khả năng thanh toán công nợ sẽ bị mất quyền tham gia đại hội thương gia và ghế của họ cũng bị đem ra khỏi hội trường.
Theo Luật phá sản nhiều nước trên thế giới thì phá sản là tình trạng một doanh nghiệp không có khả năng nộp thuế, không có khả năng thanh toán công nợ trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên việc quan niệm thế nào là mất khả năng thanh toán nợ ở các quốc gia khác nhau cũng rất khác nhau. Có nhiều nước quy định rõ chỉ số nợ đến hạn chưa được thanh toán để xác định doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng ở đại đa số nước thì vấn đề định lượng khoản nợ như vậy thường không được đặt ra.
* Luật phá sản Hungari ban hành năm 1991 quy định nếu doanh nghiệp bị rơi vào một trong các trường hợp sau đây đều bị xếp vào loại không có khả năng thanh toán.
+ Sau 60 ngày không trả được lương cho cán bộ công nhân viên của mình hay quá hạn 30 ngày không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ không thảo luận với các chủ nợ hay thấy trước khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn trong vòng một năm.
+ Đã có lệnh buộc phải trả nợ nay hết hạn nhưng vẫn chưa trả được nợ.
+ Không thực hiện đúng cam kết với các chủ nợ trước pháp luật.
* Luật phá sản của Singapo ban hành năm 1985 thì các con nợ bị rơi vào một trong các tình trạng sau thì đều bị coi là phá sản.
+ Nếu con nợ cố ý gian lận để chuyển giao, chuyển nhượng, biếu xén hay tẩu tán một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hay ở nước khác.
+ Nếu bị tuyên bố phá sản mà con nợ chuyển giao hay chuyển nhượng một phần hay toàn bộ tài sản của mình ở Singapore hay ở nước ngoài cho người khác hay cố tạo các khoản chi phí mà pháp luật hiện hành coi là giả mạo không hợp pháp.
+ Nếu con nợ bị tòa án quận huyện hay cấp trên xử phạt bằng cách tịch thu tài sản và chịu án phí 500 đô la (tiền Singapore).
+ Nếu con nợ báo tin cho chủ nợ rằng anh ta hủy bỏ hay trì hoãn công nợ.
+ Nếu con nợ điều đình xin khất nợ với hai chủ nợ trở lên hay đưa ra kế hoạch trả nợ nhưng trong vòng 14 ngày sau khi cam kết trả nợ, kế hoạch ấy vẫn chưa được đăng ký trước Tòa án đúng như chế độ thanh toán công nợ hiện hành.
+ Nếu chánh án hay nhân viên Tòa án cấp quận huyện tiến hành kiểm kê tài sản thấy rằng con nợ không còn tài sản để tịch thu. Và như vậy ngày Tòa án hết lệnh kiểm kê được coi là ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Nếu trước Tòa án con nợ xin phá sản hay tuyên bố phá sản.
* Luật phá sản Australia đưa ra một số căn cứ để dựa vào đó quyết định tuyên bố phá sản.
+ Khi số tiền mặt của doanh nghiệp cộng với giá trị tài sản không thuộc loại có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp và khả năng dễ chuyển nhượng mà nhỏ hơn tổng số nợ không có bảo đảm thì coi như doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.
+ Khi nhận giấy đòi nợ với số lượng lớn mà con nợ không đưa ra được bằng chứng nào trước tòa về khả năng thanh toán món nợ. Do chính luật sư của doanh nghiệp mắc nợ đưa ra rằng doanh nghiệp không có khả năng thanh

7dunGfh1A85q2Ge
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status