Tiểu luận Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam - pdf 13

Download Tiểu luận Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em trong Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam miễn phí



Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, để bảo vệ quyền lợi của trẻ em, pháp luật quy định trong trường hợp cha mẹ ly hôn: “ nếu trẻ đủ 9 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con” để xem xét giao con cho ai nuôi. Với quy định này Luật hôn nhân gia đình đã trao cho con quyền tự chủ, quyền được bày tỏ ý chí, nguyện vọng của mình. Các văn bản luật trước đây cũng quy định về vấn đề hỏi ý kiến của người con khi cha mẹ ly hôn như: “ Khi nào đứa con ấy đã tới 15 tuổi, nếu không có cớ gì ngăn trở tùy ý chúng nó muốn ở với người cha hay ở với người mẹ sẽ giao cho người ấy trông coi.” ( Bộ dân luật Trung Kỳ). Tuy nhiên, độ tuổi hỏi ý kiến trẻ theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 phù hợp hơn. Bởi vì, trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên đã có năng lực hành vi dân sự một phần, có thể tự quyết định những vấn đề liên quan đến nhu cầu của bản thân. Thực tiễn cho thấy, khi cha mẹ ly hôn, con cái mất đi một điểm tựa quan trọng nhất là mái ấm gia đình. Việc hỏi ý kiến để các con nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình là hoàn toàn chính đáng. Ý kiến của con tuy không có ý nghĩa quyết định cuối cùng nhưng cũng là một trong những cơ sở cần thiết để Tòa án xem xét lựa chọn người nuôi con, bảo đảm cho trẻ sự phát triển tốt nhất.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39082/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

yền thống văn hóa dân tộc góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Do vậy, trẻ em phải được quan tâm, chăm sóc, bảo vệ cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức để nối tiếp sự nghiệp cha ông.
Qua đó, ta thấy phụ nữ và trẻ em có vai trò to lớn trong cuộc sống gia đình và xã hội. Nhưng những tàn dư của chế độ phong kiến, sự ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng Nho giáo mà hiện nay quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em chưa thật sự được quan tâm và bảo vệ. Vì vậy, một đòi hỏi tất yếu khách quan của mỗi quốc gia trong đó có Việt Nam là phải bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em. Như một nhà lí luận đã từng nói: “Việc ghi nhận nguyên tắc sẽ là cơ sở vững chắc cho việc xóa bỏ tận gốc rễ những tàn dư còn lại của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến đồng thời chống lại ảnh hưởng tiêu cực của hôn nhân và gia đình tư sản để củng cố chế độ hôn nhân và gia đình xã hội chủ nghĩa, hạn chế những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường với quan hệ hôn nhân và gia đình ở Việt Nam.”
Bên cạnh đó, có thể thấy bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em là vấn đề không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa đạo lý, là truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam, mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc mang tính toàn cầu. Nguyên tắc này được thế giới công nhận và bảo vệ, thể hiện trong Công ước quốc tế về trẻ em, Công ước Cedaw về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và được nội luật hóa trong nhiều đạo luật quan trọng của Việt Nam như: Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em… Vì vậy việc ghi nhận nguyên tắc này thông qua một loạt các quy định liên quan đến quyền bình đẳng vợ chồng, các quan hệ về nhân thân và tài sản, quyền bình đẳng giữa các con trong gia đình, quyền thừa kế của con đã thành thai, việc hạn chế quyền xin ly hôn của người chồng trong trường hợp vợ đang có thai, quy định về trách nhiệm của vợ chồng trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn, việc giao con dưới 3 tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi giữ khi vợ chồng ly hôn, nguyên tắc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên trong việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn trong Luật HN&GĐ là vô cùng cần thiết và phù hợp…
Chính vì lẽ đó, việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được ghi nhận thành một nguyên tắc trong Luật HN&GĐ Việt Nam là điều tất yếu.
Nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em thể hiện qua chế định ly hôn trong các văn bản pháp luật từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước năm 2000.
Chế độ hôn nhân ở nước ta thời phong kiến rất hạn chế quyền lợi của người phụ nữ. Chẳng hạn như cho phép đàn ông lấy nhiều vợ và thiếp trong khi phụ nữ chỉ được lấy một chồng,…kể từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, sau khi được xác lập là một nước dân chủ cộng hòa, chế độ hôn nhân của nước ta mở rộng hơn về vấn đề đảm bảo quyền lợi của người phụ nữ trong hôn nhân đặc biệt là khi ly hôn. Sắc lệnh 159/SL ngày 17/11/1950 của chủ tịch nước ấn định các điều khoản về ly hôn. Trong đó nhà nước đã ghi nhận một nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, phụ nữ có thai và thai nhi thông qua chế định ly hôn như sau : “ Nếu người vợ có thai thì người vợ có thể xin tòa án hoãn đến kỳ sinh nở mới xử lý ly hôn ” ( Điều 5). Tuy nhiên, về mặt pháp lý quyết định này chưa thực sự chặt chẽ để bảo vệ bà mẹ và thai nhi vì ở đây mới chỉ nói có thể xin hoãn chứ không phải hoãn, do vậy vợ hay chồng vẫn có thể kiện ly hôn. Mặt khác, quy định hạn chế đến kỳ sinh nở là không phù hợp vì lúc này người vợ chưa thực sự phục hồi sức khỏe sau kỳ sinh đẻ. Luật HN&GĐ năm 1959 – đạo luật đầu tiên về hôn nhân và gia đình được Quốc Hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Khóa thứ I, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 29/12/1959 đã ghi nhận một nguyên tắc chung“ Nhà nước đảm bảo thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi cú phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ hòa thuận trong đó mọi người đoàn kết, yêu thương nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ”. Và để đảm bảo nguyên tắc này trong chế định ly hôn, trên cơ sở Điều 5 của sắc lệnh 159/SL Luật HN&GĐ 1959 cũng đã đề ra điều kiện hạn chế ly hôn của người chồng tại Điều 27 như sau: “Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh đẻ được một năm. Điều kiện hạn chế này không áp dụng việc xin ly hôn của người vợ”
Ở đây, nhà làm luật đã gắn trách nhiệm của người chồng đối với người vợ đang mang thai hay đang nuôi con nhỏ. Đây cũng là cơ sở để giúp các bà mẹ thực hiện tốt chức năng tái suất- sinh con của mình, giúp họ thực hiện thiên chức của một người mẹ và đảm bảo cho sự ra đời của đứa trẻ. Về điều kiện hạn chế ly hôn này thì Luật HN&GĐ 1986 cũng đã khẳng định lại một lần nữa tại Điều 41 như sau: “Trong trường hợp vợ có thai, chồng chỉ có thể xin ly hôn sau khi vợ đã sinh con được một năm. Điều hạn chế ly hôn này không áp dụng đối với việc xin ly hôn của người vợ”. Như vậy, ở đây Nhà nước không chỉ đảm bảo quyền lợi của bà mẹ và trẻ em về điều kiện hạn chế ly hôn của người chồng mà thông qua chế độ phân chia tài sản trong ly hôn, quyền lợi của người phụ nữ cũng được bảo đảm. Về vấn đề này, ngay từ khi ra đời, Luật HN&GĐ năm 1959 đã quy định : “ Khi ly hôn, việc chia tài sản sẽ căn cứ vào sự đóng góp về công sức của mỗi bên, vào tình hình tài sản và tình trạng cụ thể của gia đình. Lao động trong gia đình được kể như lao động sản xuất.
Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái và lợi ích của việc sản xuất.” (Điều 29)
Như vậy, về nguyên tắc phân chia tài sản để đảm bảo về kinh tế cho người phụ nữ mới sinh nhà nước ta luôn đặt trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn. Đây là quyền lợi và người phụ nữ có quyền được hưởng và hơn hết điều đó đảm bảo thuận lợi cho việc nuôi dưỡng đứa trẻ mới sinh của người phụ nữ bởi về nguyên tắc con còn bú phải do người mẹ phụ trách. Khi giải quyết ly hôn tòa án phải xem xét sao cho việc chia tài sản phải được đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên đồng thời quan tâm đúng mức tới quyền của người vợ và các con chưa thành niên bởi sau khi ly hôn người vợ và các con thường là những người gặp khó khăn hơn về kinh tế cũng như về mặt tình cảm. Vì vậy vấn đề bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người phụ nữ và các con được quan tâm và đặt lên hàng đầu.
Bởi vậy, trên cơ sở kế thừa và phát huy Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986 đã quy định tại điểm d – Điều 43 như sau:“ Khi chia tài sản phải bảo vệ quyền lợi của người vợ và các con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp”. Hơn nữa theo Nghị quyết số 01/NQ – HĐTP ngày 20/1/1988 hướng dẫn
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status