Tiểu luận Thực tiễn sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Thực tiễn sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam



MỤC LỤC
 
A, MỞ BÀI
B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1
I, CƠ SỞ LÍ LUẬN 1
1. Khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất 1
2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. 2
II, THỰC TIỄN SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM 2
1. Thời kì trước đổi mới ( trước năm 1986 ) 2
2.Thực tiễn sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay 4
3. Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. 6
C, KẾT LUẬN
 
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39345/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

B, GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, CƠ SỞ LÍ LUẬN
Khái niệm, kết cấu của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và người lao động.
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động( máy móc,…) và đối tượng lao động khác ( phương tiện để vận chuyển, bảo quản, chứa đựng công cụ lao động và sản phẩm ).Còn đối tượng lao động gồm hai bộ phận là những yếu tố nguyên nhiên vật liệu có sẵn trong tự nhiên ( đất đai, than đá,…) và một bộ phận phải trải qua sự cải tạo của con người – còn gọi là nhân tạo ví dụ như nhựa, gỗ ép…Trong tư liệu sản xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao động đóng vai trò là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm, còn tư liệu sản xuất chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất.
Ngày nay sự phát triển vượt bậc và khả năng ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất đã khiến cho tri thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong một cách sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất
Quan hệ sản xuất bao gồm ba mặt: quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức quản lí quá trình sản xuất, quan hệ về phân phối sản phẩm sau quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất ( quan hệ sỡ hữu ) nói lên ai chủ sỡ hữu đối với nhà máy, xí nghiệp, các thiết bị, các nguyên nhên vật liệu trong quá trình sản xuất.
Quan hệ về tổ chức, quản lí quá trình sản xuất (quan hệ quản lí ) nói lên ai là người thực hiện quyền tổ chức, quản lí, điều hành, giám sát quá trình( đó chính là người sở hữu tư liệu sản xuất ).
Quan hệ phân phối sau quá trình sản xuất (quan hệ phân phối ) nói lên ai là người có quyền quyết định việc phân phối, chia thành quả của quá trình sản xuất cho ai, bao nhiêu và như thế nào ?
Trong ba mặt trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất có vai trò quan trọng nhất, quyết định hai mặt kia, đồng thời quan hệ quản lí và quan hệ phân phối có tác động trở lại, kìm hãm hay thúc đẩy quan hệ sở hữu.
Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
-Lực lượng sản xuất có vai trò quyết định đối với sự hình thành,biến đổi và phát triên của quan hệ sản xuất
Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của nó.
Do yêu cầu phát triển sản xuất vật chất lực lượng sản xuất không ngừng phát triển lên ở trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất phải biến đổi cho phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Song lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất chậm thay đổi hơn. Do đó khi sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu cầu thay thế quan hệ sản xuất mới phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
-Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân phối. Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động.
Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo hai hướng, hay là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp hay là tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù hợp.
Sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hay do quan hệ sản xuất vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
Như vậy, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó đòi hỏi phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Qúa trình đó lặp đi lặp lại tác động cho xã hội loài người trải qua những cách sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
II, THỰC TIỄN SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
Thời kì trước đổi mới ( trước năm 1986 )
Sau cuộc chiến tranh bảo vệ dân tộc kéo dài, kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu nay lại càng gặp nhiều khó khăn hơn, lực lượng sản xuất của nước ta còn thấp kém và chưa có điều kiện phát triển.
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết không có chuyên môn tay nghề, phần lớn lao động chưa qua đào tạo. Lao động Việt Nam phần lớn tập trung vào khu vực kinh tế nông nghiệp, họ lao động sản xuất chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sản xuất mà cha ông để lại. Trường dạy nghề rất hiếm, chỉ xuất hiện rải rác ở những thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh…Ở đó, trình độ của người lao động cao hơn các vùng khác trong nước.
Tư liệu sản xuất mà nhất là công cụ lao động ở nước ta thời kì này còn thô sơ, lạc hậu.Là một nước nông nghiệp thế nhưng công cụ lao động chủ yếu là cái cày, cái cuốc, theo hình thức “ con trâu đi trước cái cày theo sau”, sử dụng sức người là chủ yếu ; trong công nghiệp máy móc thiết bị còn ít và rất lạc hậu. Phát triển của công cụ lao động cũng có sự phân hóa giữa các vùng, miền khác nhau.
Nhìn chung,trước đổi mới lực lượng sản xuất ở Việt Nam rất thấp kém, lạc hậu, tụt hậu và phát triển không đồng đều.
Trong hoàn cảnh đó Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động.Nhà nước không thừa nhận yếu tố kinh tế tư bản như là các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân, đã phân định tách bạch thuần khiết chế độ sở hữu và thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phi xã hội chủ nghĩa, tuyệt đối hóa vai trò của chế độ công hữu, dẫn đến chủ trương...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status