Tiểu luận Vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Vấn đề tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của biện pháp này



Những nguyên nhân chủ quan đều là những nguyên nhân thuộc về con người, nên để thiết lập trật tự, tăng cường pháp chế trong lĩnh vực tạm giữ, đảm bảo cho công dân không bị tạm giữ một cách trái pháp luật, vấn đề đầu tiên phải chú trọng vẫn là yếu tố con người như chấp hành nghiêm túc các tiêu chuẩn đối với các chức danh: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và sửa đổi bổ sung những quy định chưa phù hợp:
- Tiêu chuẩn hóa trình độ cán bộ;
- Tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn ngắn ngày về từng chuyên đề tố tụng, nâng cao trình độ của các chức danh có thẩm quyền trong lĩnh vực tạm giữ;
- Cần sớm hướng dẫn cụ thể và có biện pháp nhằm khắc phục tình trạng tạm giữ tràn lan, không đúng đối tượng, chỉ tạm giữ những đối tượng có hành vi phạm tội và có đầy đủ các điều kiện luật định, kiên quyết tránh tình trạng tạm giữ trái pháp luật;
- Kiện toàn hệ thống bảo vệ, tăng cường chế độ quản lý, giám sát người bị tạm giữ, có đầu tư thích đáng để xây dựng hệ thống nhà tạm giữ cấp quận, huyện và các trại tạm giữ đảm bảo các yêu cầu đủ về số lượng, an toàn về chất lượng và đúng các quy định về chế độ tạm giữ;
- Duy trì việc kiểm tra thường xuyên, tăng cường điều tra đột xuất theo ngành dọc, tăng cường và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực giam giữ nhằm phát hiện kịp thời những biểu giện vi phạm để sớm có biện pháp khắc phục;
- Rà soát để đảm bảo chất lượng nhân viên và công việc tạm giữ;
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39319/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

ịnh tạm giữ không hoàn toàn là những người thay mặt của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hay trong lực lượng vũ trang.
4. Thủ tục tạm giữ
Theo quy định tại khoản 3 Điều 86 BLTTHS 2003, việc tạm giữ phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra lệnh tạm giữ, lệnh tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Khi kiểm sát việc tạm giữ, nếu thấy việc tạm giữ không đúng pháp luật hay không cần thiết phải tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hay đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hay cản trở công việc điều tra.
5. Thời hạn tạm giữ
Điều 87 BLTTHS năm 2003 quy định:
“1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn: trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam”.
Việc quy định được gia hạn tạm giữ cụ thể quy định có thể gia hạn tạm giữ hai lần nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn lan, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt. Ngoài ra việc đặt ra quy định khi gia hạn tạm giữ cần có quyết định phê chuẩn của viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm quyền lợi cho công dân tránh tình trạng do những mâu thuẫn cá nhân ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị tạm giữ.
Khoản 4 Điều 87 quy định thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam. Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù. Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”.
Điểm mới về thời hạn tạm giữ trong BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988 là bổ sung về thời hạn trong khoảng thời gian 12 giờ Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn quyết định ra hạn tạm giữ. Điều này góp phần đảm bảo quyền lợi của người bị tạm giữ.
II. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
Ưu điểm
1.1. Về đối tượng áp dụng biện pháp tạm giữ
Pháp luật tố tụng hình sự đã chỉ ra 1 cách cụ thể các đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hay người phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đấu thú hay đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Chính việc quy định 1 cách cụ thể các trường hợp áp dụng như trên tạo điều kiện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định đúng đối tượng cần tiến hành bắt giữ trên thực tế, tránh nhầm lẫn (khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003).
+ Trường hợp bắt người khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp cơ quan điều tra đã xác định cần ngăn chặn việc người đó trốn hay cản trở điều tra.
+ Trường hợp người bị bắt phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành động biểu hiện cản trở việc điều tra thì không cấn phải tạm giữ.
+ Người bị bắt theo lệnh truy nã ngay sau khi lấy lời khai cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ dặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
          Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đến việc tạm giữ người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra quy định chi tiết, rõ ràng sau “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có đủ căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong truờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hay đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dứới 18 tuổi có thể bị tạm giữ nếu có căn cứ tại điều 86 BLTTHS năm 2003 nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hay phạm tội đặc biệt nghiêm trọng” (Điều 303 BLTTHS năm 2003).
          Trong khi tạm giữ nếu không đủ căn cứ để khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, đây là quy định mới so với BLTTHS 1988. Đây là một ưu điểm vì bảo vệ quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, quy định chặt chẽ hơn việc tạm giữ người, hạn chế việc phải bồi thường thiệt hại cho người bị bắt oan.
          Khi người bị tạm giữ có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hay có người thân thích là người tàn tật, già yếu không có người chăm sóc thì ra cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm đối với họ. Trong trường hợp người bị tạm giữ có nhà hay tài sản khác không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ có nhiệm vụ trông nom, bảo quản. Quy định này thể hiện tính nhân đạo trong chính...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status