Tiểu luận Bàn về hợp đồng vô hiệu, thực trạng, ý kiến và các giải pháp - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Bàn về hợp đồng vô hiệu, thực trạng, ý kiến và các giải pháp



Giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH là buộc các bên “ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định cuả pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”( khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Bình thường do quy định của hay các bên có thoả thuận trước về hậu quả, ví dụ: phạt, phạt cọc khi một bên có lỗi và phải chịu hậu quả tương ứng với lỗi do họ gây ra. Do đó HĐVH chỉ có thể làm phát sinh hậu quả về trách nhiệm dân sự hay bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39110/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

giao kết hợp đồng phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thoả thuận không phản ánh đúng ý chí cuả các bên đều có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí của chủ thể là thể hiện mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật cho phép mà không bị sự ép buộc nào.
- Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi tham gia giao kết hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải thể hiện ý chí của mình còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về hình thức đối với một số loại hợp đồng nhất định. Thông qua các biểu hiện về hình thức này người khác có thể phần nào biết được nội dung của hợp đồng. Việc quy định một số loại giao dịch cần tuân theo các quy định về hình thức dưạ trên cơ sở là đối tượng của các loại hợp đồng này có giá trị lớn hay có chức năng đặc biệt nên hình thức của hợp đồng là căn cứ xác đinh nội dung của hợp đồng. Mặt khác, với những quy đinh này còn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra giám sát việc chuyển dịch các tài sản này.
2.2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định.
Khi hợp đồng vô hiệu thì: “… các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” (Khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên nên phải quay lại tình trạng ban đầu như trước khi tham gia hợp đồng. Tuy nhiên về mặt thực tế có trường hợp khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu có bên được hưởng lợi, có bên bị thiệt hại.
3. Phân loại hợp đồng vô hiệu.
Vì các quy định về giao dich dân sự từ Điều 127 đến Điều 138 được áp dụng cho hợp đồng vô hiệu nên dựa vào đó có thể thấy có những loại hợp đồng vô hiệu dựa vào các căn cứ sau :
* Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng loại hợp đồng dân sự cụ thể thì hợp đồng dân sự được chia thành:
- Hợp đồng dân sự vô hiệu toàn bộ: là hợp đồng mà toàn bộ nội dung của nó đều vi phạm điều kiện có hiêụ lực của hợp đồng hay có một số nội dung của hợp đồng bị vô hiệu nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng tới phần còn lại của hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần: là hợp đồng mà chỉ có một số nội dung vi phạm các điều kiện có hiệu lực của HĐDS, còn các nội dung khác không vi phạm hay có một phần của HĐVH nhưng không ảnh hưởng tới hiệu lực còn lại của hợp đồng.
* Dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không của HĐDS cũng như căn cứ vào ý chí của Nhà nước, ý chí của chủ thể tham gia giao dịch thì HĐVH đuợc chia thành:
- Hợp đồng dân sự đương nhiên vô hiệu ( vô hiêu tuyệt đối ) : là hợp đồng không có hiệu lực pháp luật ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp luật không làm phát sinh quyền và nghĩa của các bên. Do vậy cả trường hợp các bên tham gia hợp đồng đã ký kết và thực hiện sẽ không có giá trị pháp lý. Các bên tham gia phải chấm dứt thực hiện và quay lại trạng thái ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
- Hơp đồng vô hiệu khi có yêu cầu ( vô hiệu tương đối ): Là hợp đồng có khả năng khắc phục, nó được coi là hợp đồng có thể hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên kia hợp đồng. Hợp đồng này thông thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô hiệu đối với bên có lỗi mà không vô hiệu với bên không có lỗi. Khi xác định hợp đồng vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên đã thoả thuận đều không có hiệu lực pháp luật, còn trong trường hợp hợp đồng đó được thừa nhận sau khi đã khắc phục thì đương nhiên quyền, nghĩa vụ của các bên sẽ được pháp luật bảo vệ theo sự cam kết thoả thuận của các bên. Hợp đồng khắc phục là hợp đồng mới. Với hợp đồng vô hiệu tuyệt đối lại khác. Đây thường là hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật nên trong thực tế Toà án và các cơ quan có thẩm quyền không cho phép khắc phục mặc dù các bên có mong muốn được khắc phục.
* Dựa vào các quy định trong BLDS 2005.
- Hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội ( Điều 128 BLDS 2005).
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực chung trong đời sống xã hội, đựơc cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.(Điều 129 BLDS 2005).
Ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó phải là sự thống nhất. Khi hai cái đó không có sự đồng nhất thì hợp đồng dân sự vô hiệu. Trên cơ sở này, pháp luật quy định HĐDS được xác lập một cách giả tạo thì hợp đồng này vô hiệu còn hợp đồng bị che giấu vẫn có hiệu lực. Nếu hợp đồng bị che giấu cũng vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thì cũng bị coi là vô hiệu. Ngoài ra khi các chủ thể xác lập hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì cũng bị coi là vô hiệu.
- Họp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện.(Điều 130 BLDS 2005)
Đối với các HĐDS đựoc xác lập, thực hiện bởi người chưa thành niên, người mất NLHVDS, người bị hạn chế NLHVDS mà theo quy định của pháp luật hợp đồng này phải do người thay mặt của họ xác lập, thực hiện thì pháp luật cho phép người thay mặt của những người này có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐVH.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. (Điều 131 BLDS 2005).
Ở đây, HĐDS được xác lập bởi sự nhầm lẫn không có sự thống nhất ý chí đích thực với sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài. Do đó bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố HĐDS vô hiệu mà không cần yêu cầu bên kia thay đổi nội dung hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ.(Điều 132 BLDS 2005).
Là hợp đồng mà bản thân chủ thể xác lập hợp đồng bị “tê liệt ” về ý chí và không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc lựa chọn ý chí của một bên (đe doạ) hay sự nhận thức không đúng về HĐDS bởi hành vi vi phạm pháp luật, bởi sự định hướng ý chí của chủ thể thành một nội dung khác có lợi cho người định hướng ( lừa dối).
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005).
Một người có năng lực hành vi dân sư đầy đủ có thể xác lập hợp đồng theo ý chí của mình. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp bản thân chủ thể xác lập hợp đồng mặc dù có NLHVDS đầy đủ nhưng đã không xác lập hợp đồng vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Ví dụ trong tình trạng say rượu, bia….
- Hợp đồng dân s...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status