Tiểu luận Những điểm đặc sắc trong lĩnh vực hôn nhân gia đình của bộ quốc triều hình luật - pdf 13

Download miễn phí Tiểu luận Những điểm đặc sắc trong lĩnh vực hôn nhân gia đình của bộ quốc triều hình luật



Theo như các quy định tại các điều 374, 375, 376 tài sản vợ chồng bao gồm tài sản riêng của mỗi người được thừa kế từ gia đình và tài sản chung vợ chồng cùng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Lần đầu tiên, pháp luật công nhận công lao đóng góp vào việc tạo ra tài sản chung của vợ chồng từ đó công nhận quyền sở hữu của người vợ đối với một nửa tài sản hai vợ chồng làm ra thể hiện qua các quy định tại điều 374: “ Nếu điền sản là của chồng và vợ trước làm ra thì chia làm hai phần, vợ trước và chồng mỗi người một phần, phần của vợ trước thì để riêng cho con, còn phần chồng lại chia như trước. Nếu điền sản là của chồng và vợ sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần, chồng và vợ sau mỗi người một phần, phần của chồng thì chia như trước, còn phần của vợ sau thì được nhận làm của riêng ”và điều 375: “ còn điền sản của vợ chồng làm ra thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được một phần; phần của vợ được nhận làm của riêng ”.
Sự quy định thành phần khối tài sản chung, riêng rõ ràng của vợ chồng là điểm rất tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và nó vẫn được tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật hiện nay. Việc chia đôi khối tài sản chung chứng tỏ rằng sự đóng góp của người vợ vào khối tài sản chung là ngang bằng với người chồng. Sự bình đẳng đó còn thể hiện ở quyền định đoạt tài sản chung. Như vậy địa vị pháp lý của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với các quan niệm Nho giáo qua việc thừa nhận quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng.
 


/tai-lieu/de-tai-ung-dung-tren-liketly-39987/
Để tải bản DOC Đầy Đủ thì Trả lời bài viết này, mình sẽ gửi Link download cho

Tóm tắt nội dung:

(gần một nửa) không tìm thấy trong bộ luật nhà Đường. Có một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Nho giáo ở nước ta như những lớp trầm tích đan xen, bện chặt lấy nhau, gần như một khu rừng nhiệt đới rậm rạp”. Sở dĩ có lớp trầm tích độc đáo ấy là bởi chúng ta đã biết kết hợp tư tưởng Nho giáo với những phong tục tập quán của dân tộc và thể hiện rõ nét nhất trong Quốc triều hình luật. Có được sức sống lâu dài, được nhiều nhà đánh giá cao vì bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, kỹ thuật pháp lý hoàn thiện hơn so với các bộ luật cùng thời, có những điểm tiếp cận gần với kỹ thuật pháp lý hiện đại. Bên cạnh những tư tưởng tiến bộ, những nét độc đáo rất riêng của xã hội Việt Nam đặc biệt là sự anh minh, tấm lòng nhân ái của các vua Lê được thể hiện rất rõ ở các quy định đặc sắc trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình tập trung chủ yếu ở hai chương Hộ hôn và Điền sản
NỘI DUNG
I – GHI NHẬN VÀ BẢO VỆ QUYỀN NHÂN THÂN CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ: 1, Quyền từ hôn của người con gái: Trong xã hội phong kiến nói chung, chế độ hôn nhân không tự do, hôn nhân của con cái là do cha mẹ sắp đặt với mục đích trước tiên là vì quyền lợi của gia đình, dòng họ. Thêm vào đó là chế độ hôn nhân bất bình đẳng, quyền lợi luôn nghiêng về phía người gia trưởng. Theo quan điểm Nho giáo địa vị người con gái luôn ở vị trí thấp kém ngay từ khi mới bắt đầu xác lập hôn nhân. Tuy nhiên pháp luật thời Lê đã khéo léo bổ sung thêm quyền lợi cho người con gái để phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc là xác định vị trí quan trọng của người phụ nữ trong gia đình. Do đó trong bộ QTHL đã có những điều khoản tiến bộ bảo vệ người con gái ngay từ khi chuẩn bị bước chân về nhà chồng. Theo như Điều 322 quy định: “Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hay phá tán tài sản thì cho phép người con gái được kêu quan trả đồ sính lễ”. Người con trai cũng có quyền từ hôn nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội. Đây là quan điểm tiến bộ của nhà lập pháp triều Lê cho phép người con gái có quyền từ hôn ngang bằng như con trai. Quy định này khác xa với pháp luật đời Đường chỉ quy định hình phạt cho bên nhà gái, cấm quyền từ hôn của người con gái, nếu người con gái vi phạm thì bị phạt 60 trượng. Mặc dù quy định trên xuất phát từ lợi ích của gia đình phong kiến song nó đã thể hiện phần nào quan điểm tiến bộ của nhà lập pháp vì đã dành cho người con gái cũng có quyền từ hôn như người con trai nên đã bảo vệ lợi ích cho người con gái. 2, Bộ luật có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người chồng đối vối gia đình, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ. Mặc dù thiên về quyền lợi pháp lý của người chồng với tư cách là gia trưởng song Quốc triều hình luật đã có nhiều quy định ràng buộc trách nhiệm của người chồng đối với gia đình, hạn chế quyền tuyệt đối định đoạt của người chồng đối với vợ trong một số trường hợp nhất định. Chẳng hạn như trong việc thực hiện nghĩa vụ đồng cư, người chồng cũng phải có trách nhiệm. Nghĩa vụ này chỉ có ý nghĩa khi cả hai vợ chồng cùng thực hiện. Nếu chỉ có người vợ thực hiện thì cũng không thể đảm bảo được lợi ích của gia đình. Vì vậy, Điều 308 Quốc triều hình luật quy định: Nếu người chồng lơ là không làm tròn bổn phận của người chồng đối với vợ trong thời gian 5 tháng (nếu đã có con thì là 1 năm) thì người vợ được quyền li hôn. Với tư cách người gia trưởng, người chồng phải có nghĩa vụ chăm lo đời sống gia đình, vợ con và đặc biệt là với người vợ cả. Do vị trí là chính thất, người vợ có có quyền được chồng quan tâm cả về vật chất và tinh thần. Để bảo vệ quyền lợi của người vợ cả, pháp luật còn quy đinh: “...vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm (phải có người vợ thưa thì mới bắt tội)” (Điều 309). Đây là một quy định chỉ có trong Quốc triều hình luật mà chưa có trong cổ luật. Những quy định này đã ràng buộc người chồng phải có trách nhiệm với gia đình, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người vợ. Trong quan hệ vợ chồng, mặc dù giữ quyền gia trưởng, người chồng không được tuỳ tiện đánh đập, đối xử tàn bạo đối với vợ. Hành vi đánh vợ của người chồng vẫn bị xử lý theo pháp luật nhưng với mức phạt thấp hơn ba bậc so với các trường hợp phạm tội thông thường khác. Chồng có ý giết vợ thì chỉ được giảm tội một bậc. Chồng đánh chết vợ là bất mục - một trong mười tội nặng nhất trong xã hội phong kiến (Điều 482). Sự trừng phạt của pháp luật đối với người chồng khi có những hành vi xâm phạm quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ của người vợ là một cách thức hạn chế quyền gia trưởng của người chồng, bảo vệ được quyền của người vợ và đó là đòi hỏi tất yếu, rất cần thiết không chỉ trong xã hội phong kiến thời Lê mà còn ngay trong cả hoàn cảnh xã hội hiện bay để chống nạn bạo lực gia đình. Pháp luật nhà Lê rất hợp lý, hợp tình khi quy định trong cả hai trường hợp vợ đánh chồng và chồng đánh vợ đều phải có người bị đánh cáo quan, thì mới bắt tội. Đây là quy định nhằm hạn chế sự can thiệp từ bên ngoài vào các mối quan hệ trong gia đình. Nó giành cho vợ chồng quyền tự quyết định cách xử sự cần thiết trong trường hợp cụ thể cho phù hợp với hoàn cảnh gia đình mình, đồng thời tạo điều kiện hàn gắn quan hệ vợ chồng. Qua đó cho thấy, mặc dù nhằm bảo vệ trật tự, sự ổn định trong gia đình song pháp luật chỉ can thiệp khi cần thiết. Quốc triều hình luật có những quy định về hình phạt đối với những người đàn ông khi có hành vi gian dâm hay thông gian. Đoạn 1 Điều 401 quy định: “Gian dâm với vợ người khác thì bị xử tội lưu hay tội chết; với vợ lẽ người khác thì bị giảm một bậc. Với người quyền quý thì sẽ xử cách khác; kẻ phạm tội đều phải nộp tiền tạ như Luật định”. Như vậy, hành vi này bị trừng phạt rất nghiêm khắc, có thể dẫn tới tội chết. Đối với hành vi thông gian, tức là hành vi ngoại tình đi lại với nhau chứ không phải là bắt được gian dâm nên cách xử lý có nhẹ hơn. Theo điều 405 Quốc triều hình luật thì hành vi thông gian với vợ người khác bị xử phạt 60 trượng, biếm hai tư, bắt nộp tiền tạ nhiều hay ít theo bậc cao thấp của người đàn bà. Sự trừng phạt này vừa có tác dụng bảo vệ quyền lợi của gia đình, của người vợ, vừa ngăn chặn những hành vi đó trong tương lai. Việc áp dụng chế tài hình sự nghiêm khắc trong các trường hợp này có tác dụng răn đe thiết thực, có hiệu quả trong việc ngăn chặn tệ nạn ngoại tình. Đây là biện pháp đáng để suy nghĩ và có thể tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật nhằm loại trừ những hiện tượng ngoại tình và vi phạm chế độ một vợ một chồng còn tồn tại khá phổ biến hiện nay. Trong việc duy trì và bảo vệ chế độ đa thê, pháp luật nhà Lê đã dành cho vợ quyền thưa kiện trong trường hợp chồng vi phạm trật t...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status