Tín ngưỡng Thành hoàng trong làng xã vùng Huế - pdf 14

Download miễn phí Tín ngưỡng Thành hoàng trong làng xã vùng Huế



Miếu Thành Hoàng có quy mô khiêm tốn, tọa lạc trên một vùng “lùm lòi” rậm rạp ở rẻo đất sát truông rú, thường thì ở cuối làng, đầu làng, có khi miếu Thành Hoàng tọa lạc ở một bên đình làng. Như miếu Thành Hoàng làng Nguyệt Biều (9) nằm ở cuối làng bên mé sông Hương, nơi có rất nhiều cây cổ thụ, tạo nên một nét linh thiêng, cổ kính, người dân thường gọi đây là Miếu Ông. Miếu Ông có diện tích chừng 20m2, bên trong có các cột gỗ, trên lợp ngói liệt, được xây tường gạch bao quanh. Còn miếu Thành Hoàng làng Đức Bưu (10) thì nằm đối diện phía bên trái của đình làng, cách chừng 100m. Trước kia đây là vùng thấp trũng, với những đồng lúa rộng mênh mông, nhưng bây giờ nơi đây đã là những khu định cư với nhiều nhà cao tầng khiến cho miếu Thành Hoàng không còn linh thiêng như trước. Kiến trúc của miếu được xây bằng gạch và trát vữa, bên trong không có cột, với diện tích chừng 15m2. Miếu Thành Hoàng làng Dương Xuân (11) nằm bên trái của đình, miếu rộng chừng 18m2 thờ Bổn Thổ Thành Hoàng Ngô Đại Tướng Quân Tôn Thần, đặc biệt ở phía sau đình có lăng của ngài Bổn thổ Thành Hoàng Ngô Đại Tướng Quân.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

TÍN NGƯỠNG THÀNH HOÀNG TRONG LÀNG XÃ VÙNG HUẾ
Lê Văn Thi* Tp Huế
Thần Thành Hoàng được người Việt xem như một vị thần hộ mệnh, có công che chở bảo vệ cho con dân trong làng. Vì vậy, tất cả các làng xã người Việt xưa đều có một vị Thành Hoàng đặc trưng riêng cho làng mình, có thể cùng một vị Thành Hoàng nhưng qua mỗi vùng, miền lại có những câu chuyện, những sự tích khác nhau làm tô thêm sự trang nghiêm, linh ứng cho thần. Chính vì vậy, khi cư dân Việt di cư vào Nam đã mang theo những nét đặc trưng đó và thay đổi sao cho thích hợp với một vùng đất và một nền văn hóa mới…
- Huế trong tiến trình lịch sử
Tuy có sự khác nhau giữa các nguồn sử liệu, song đã có nhiều ý kiến đồng tình với khẳng định vùng đất này trong những thế kỷ đầu Công Nguyên thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam thời thuộc Hán.
  Từ năm 192 sau Công Nguyên vùng đất này thuộc địa bàn nước Lâm Ấp và sau đó là vương quốc Champa kéo dài gần 12 thế kỷ. Sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, biên giới Đại Việt mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô – Rí (Lý). Năm sau vua Trần cho đổi thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thành Hóa Châu (1) là trị sở và trung tâm chính trị kinh tế hành chính và quân sự của châu Hóa. Sau hơn hai thế kỷ mở mang khai khẩn, đến giữa thế kỷ thứ XVI, lộ Thuận Hóa đã thành nơi "đô hội lớn của một phương". Năm 1636 chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí tây nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712-1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi Võ Vương (2) lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc đông nam Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong sách Phủ Biên Tạp Lục năm 1776. Đó là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ sông Hương, từ Kim Long - Dương Xuân đến Bao Vinh - Thanh Hà. Tiếp đó, Phú Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều Tây Sơn (1788-1801) và là kinh đô của nước Việt Nam gần 1,5 thế kỷ dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945).
- Sự hình thành các làng xã và văn hóa dân tộc vùng Huế
Về lịch sử các làng Việt ở vùng Thuận Hóa được thành lập muộn hơn so với các làng Việt ở miền Bắc. Mãi đến thời nhà Trần, do có sự kiện công chúa Huyền Trân nên hai châu Ô và châu Rí (Lí) (3) mới được sát nhập vào nước Đại Việt. Nhưng mãi đến năm 1470, vua Lê Thánh Tông cử đại binh đánh chiếm đến Bình Định, vùng đất Thuận Hóa mới được yên. Nhân dân dồn sức lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, đến giữa thế kỷ XVI làng xóm đã no đủ, yên vui.
Đến lúc chúa Nguyễn lập phủ chính ở bên bờ sông Hương, địa bàn nước ta mới bắt đầu mở rộng về phía nam. Các làng xã vùng Thuận Hóa đã dần ổn định và bước sang một giai đoạn phát triển mới.
Có thể nói văn hóa ở vùng Huế hình thành muộn hơn so với các tỉnh ở miền Bắc. Nhưng nét văn hóa ấy không mang đậm dấu ấn của miền Bắc. Lý do là vì khi di cư vào vùng Thuận Hóa, cư dân Việt đã có sự tiếp xúc với văn hóa Chăm. Sự giao lưu giữa hai nền văn hóa ấy đã tạo nên một nét văn hóa riêng. Lại thêm những điều kiện mà thiên nhiên ban phát cho vùng đất này đã tạo nên tiếng nói, điệu hò, cách ăn mặc, đi đứng… rất Huế mà ở miền Bắc không thể có được. Những nét ấy được thể hiện rõ khi cư dân người Việt đầu tiên vào lập nghiệp ở vùng Thuận Hóa.
- Tín ngưỡng Thành hoàng và việc thờ thần Thành hoàng ở vùng Huế.
Khái niệm về thần Thành hoàng: Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên thì dáng của Thành Hoàng làng xã Bắc bộ rất phong phú và đa dạng. Trong diễn trình lịch sử phát triển làng xã hàng nghìn năm, dấu ấn mở đất lập làng gắn liền với các bậc khai canh khai khẩn đã trở nên quá xa và dần ổn định mang tính biểu tượng, tích hợp thành tín ngưỡng Thành Hoàng. Đó có thể là những Thiên thần (Tản Viên, Phù Đổng), những nhân vật lịch sử có công lớn với đất nước (Lý Ông Trọng, Phạm Ngũ Lão, Trần Hưng Đạo…) và có khi, lại là một người đang sống, một ông quan to, hay một nhân vật có thế lực, đã có công với làng và được dân làng “thẳng tay” thay thế cho vị thần Thành Hoàng cũ đã không che chở được cho họ. Một vài làng có những thay đổi vị thần Thành Hoàng là vì những nguyên do giống như vậy. Có những trường hợp sau khi có những vị thần khải huyền bí báo cho họ biết các trường hợp vắng mặt, bỏ đi, bội phản của thần đang ngự trị, họ trịnh trọng xua đuổi các vị thần đó và thêm vào đấy một thần khác [11; tr.847].
Trong tác phẩm Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, tác giả Nguyễn Từ Chi đã giải thích nghĩa chữ Thành hoàng như sau: “Khái niệm gốc Trung Hoa hai chữ Thành Hoàng là chỉ vị thần trấn ở thành (thành:城) và hào (hoàng: 隍), những kiến trúc phòng ngự bao quanh một trung tâm chính trị, quân sự thời cổ. Cũng như bao khái niệm khác, Thành Hoàng khi từ đất người chuyển qua đất Việt, đã dần dần trút bỏ nội dung cũ để mang một nội dung mới hoàn toàn. Tín ngưỡng Thành Hoàng trong một xã hội Việt cận đại có nhiều nguồn gốc phức tạp, trong đó phải kể đến các nguồn gốc bản địa: một vị thần đất, một nhân vật còn sót lại từ những thần thoại xưa, cũng có thể là linh hồn của những người đầu tiên đến khai thác một vùng đất đai, hay tổ tiên của một dòng họ lớn ở địa phương…Từ những tiền đề kể trên, Thành Hoàng hẳn còn tiếp thu thêm nhiều yếu tố mới, kể cả một số nhân vật lịch sử của các triều đại, để chung đúc nên diện mạo thống nhất của vị thần bảo vệ từng làng xã. Bởi vì nhà nước quân chủ tập quyền Việt Nam, trong cố gắng trường kỳ nhằm ngày càng vươn tay ra dài hơn để nắm cho chặt thêm vô vàn những điểm tụ cư của nhân dân, không thể bỏ qua mà không lợi dụng một hình thái thờ phụng trong đó đã kết tinh lại tất cả thần thái của làng Việt cổ truyền: Buông rơi nó là mặc cho làng tha hồ sử dụng một đòn bẩy tinh thần để cường điệu biệt tính địa phương; nắm lấy nó là có trong tay một lợi khí để đưa vào đầu óc của từng nông dân ở sâu trong làng xóm những lề lối suy nghĩ phù hợp với quyền lợi của chế độ quân chủ tập quyền [5; tr.250].
Như vậy, theo chúng tui Thành Hoàng làng là vị thần ngự trị trong lòng dân từ nhiều thế kỷ và hầu hết các làng đều có nơi để thờ thần Thành Hoàng (có thể là miếu hay đình). Từ cõi tục cuộc sống của con người đầy gian lao vất vả bởi muôn vàn khó khăn, nhiều khi không thể giải quyết được. Điều đó khiến người dân trông cậy vào sự âm phù của siêu nhiên và nhất là vị...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status