Những nhân tố tác động đến đói nghèo ở Việt Nam hiện nay và biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo - pdf 14

Download miễn phí Đề tài Những nhân tố tác động đến đói cùng kiệt ở Việt Nam hiện nay và biện pháp nhằm xoá đói giảm nghèo



Xét trong từng vùng, giữa các tỉnh tỷ lệ nghèo đói cũng sự khác biệt. Tại vùng Tây Nguyên, tỷ lệ nghèo đói của Lâm Đồng là 15,89%; Đắc Lắc là 26,44%; nhưng Gia Lai là 44,85% và Kon Tum là 54,4%. Tỷ lệ này chênh lệch tới 3,4 lần giữa tỉnh có tỷ lệ nghèo đói cao nhất so với tỉnh có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất. Nếu lấy chuẩn mực tối thiểu để so sánh thì một số tỉnh như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu có tỷ lệ nghèo đói đều dưới 5% trong khi đó một số tỉnh có tỷ lê nghèo dói cao như Hoà Bình 55,7%; Kon Tum 54,5%; Quảng Bình 46%; Gia Lai 44,85%; Lai Châu 42,4%; Sơn La 40%. Tỷ lệ nghèo đói chênh lệch giữa các thành phố gần 10 lần. Theo báo cáo của địa phương, hiện nay mới có 10 tỉnh, thành phố (chiếm 16%) có tỷ lệ nghèo đói dưới 10% phân bố ở đồng bằng Sông Hồng 5 tỉnh Đông Nam Bộ 4 tỉnh, Đồng bằng Sông Cửu Long 1 tỉnh. Trong khi đó có 11 tỉnh có tỷ lệ nghèo đói từ 50% trở lên (chiếm 18%) tập trung ở miền núi phía Bắc 5 tỉnh, Bắc Trung bộ 3 tỉnh, Duyên Hải miền Trung 1 tỉnh, Tây Nguyên 9 tỉnh. Một số huyện thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên có tỷ lệ hộ nghèo đói rất cao từ 60-70%.



Để tải bản DOC Đầy Đủ xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.

Tóm tắt nội dung:

ên 1000 dân
VI. Nhà ở vệ sinh
VII: Văn hoá và giao tiếp
14. Tỷ lệ hộ gia đình ở lều lán và nhà tạm bợ trong tổng số hộ
15. Tỷ lệ hộ có nguồn nước sạch (giếng, ống dẫn nước sạch)
16. Tỷ lệ hộ có nhà tắm
17. Tỷ lệ hộ có nhà xí hợp vệ sinh
18. Số Kw/h điện tiêu dùng tính trên đầu người/tháng
19. Có hay không có công trình văn hoá quan trọng (nhà văn hoá, thư viện, loa truyền thanh)
20. Có hay không có chợ.
21. Số máy điện thoại tính trên 1000 dân
VIII. Sự tham gia của nhân dân vào các hoạt động xã hội.
22. Tỷ lệ số thành viên các tổ chức chính trị, xã hội (Đảng, Đoàn thanh niên, phụ nữ, mặt trận tổ quốc, các hội nghề nghiệp) trên 1000 dân.
IX. Đời sống và địa vị của phụ nữ
23. Tỷ lệ phụ nữ có thai suy dinh dưỡng
24. Số phụ nữ tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể xã hội tại địa phương trên 1000 phụ nữ.
Nguồn: Vũ Tuấn Anh “Những tiêu chuẩn đánh giá mức cùng kiệt ở nông thôn”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 4 năm 1997, trang 38.
Những chỉ tiêu về mức thu nhập ở cấp cộng đồng (làng xã) là phản ánh mức độ đáp ứng những nhu cầu cơ bản về hàng hoá và dịch vụ công cộng, cả trong tiêu dùng vật chất lẫn hưởng thụ văn hoá tinh thần.
Nhìn chung hiện nay nước ta dùng hệ thống chỉ tiêu này để đánh giá cùng kiệt cấp cộng đồng là tương đối hợp lý. Tuy nhiên nó vẫn còn có mặt hạn chế, chưa nêu bật được chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người để đánh giá về nghèo. Mặt khác, sau những trận bão khủng khiếp cuối những năm 90 ở Nam Bộ, nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về nhà ở kiên cố, người ta xây dựng nhà nổi để sống chung với lũ. hay hiện nay nhu cầu về gạo đang có xu hướng giảm, và cũng có thể rất nhiều hộ gia đình không có nhu cầu về màn nếu họ ở nhà lầu với máy điều hoà nhiệt độ... Những hộ như thế chưa chắc đã thuộc diện cùng kiệt đói.1.3. Bức tranh cùng kiệt đói toàn cầu
Trong thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến một sự tiến bộ vượt bậc trong công cuộc xoá đói giảm cùng kiệt và cải thiện phúc lợi ở các nước đang phát triển, tuổi thọ bình quân đã tăng 20 năm, tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh và tỷ lệ sinh giảm hơn một nửa. Năm 1965 đến năm 1998, thu nhập trung bình tăng hơn hai lần ở các nước này và riêng trong giai đoạn 1990-1998, số người trong cảnh cùng cực đã giảm được 78 triệu người. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XXI cùng kiệt đói vẫn còn là vấn đề rất lớn của toàn cầu. Theo số liệu của WB, trong số 6 tỷ người của thế giới thì có đến 2,8 tỷ người sống dưới mức 2USD/ngày và 1,2 tỷ người sống dưới mức 1USD/ngày. Mức độ cùng kiệt đói của toàn thế giới là rất lớn. Xét theo từng khu vực mức độ này có khác nhau nhưng vẫn nói lê tính nghiêm trọng của tình hình cùng kiệt đói của từng khu vực cũng như toàn thế giới. Số liệu thống kê của LHQ năm 1998 cho thấy: Tại Nam Á, có 560 triệu người cùng kiệt (chiếm một nửa tổng số người cùng kiệt trên thế giới). 600 triệu dân đang suy dinh dưỡng, 250 triệu người không được sống trong những điều kiện vệ sinh cơ bản. Có 1/3 trẻ sơ sinh thiếu cân, 80% số phụ nữ mang thai lại thiếu máu, 1,8 triệu trẻ em không được tới trường học. Lực lượng trẻ em phải lao động kiếm sống rất cao. Ví dụ, ở Ấn Độ có khoảng từ 14 đến 100 triệu trẻ em phải lao động. Đông Á là khu vực có GDP tính trên đầu người tăng trung bình 5%, mức cao nhất thế giới. Tuy vậy, khu vực này vẫn có 170 triệu người cùng kiệt khổ. Tại miền Nam Châu Phi - Xahara có 215 triệu người nghèo, hơn 80 triệu trẻ em đến tuổi tới trường không được đi học. Hàng năm có 1,3 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang. Tại các nước Ả Rập, từ năm 1960 đến năm 1993, thu nhập thực tế là 3%/năm, nhưng hiện nay vẫn còn 73 triệu người nghèo, 60 triệu người mù chữ. Tại Mĩ la tinh và vùng Caribê, 150 triệu người nghèo, 56% nông dân không có nước sạch để uống. Tại các nước nông nghiệp phát triển, GDP thực tế tăng hơn 3%/năm, tuy nhiên vãn có hơn 100 triệu người nghèo, hơn 5 triệu người không có nhà ở và hơn 30 triệu người cùng kiệt không có việc làm.
Qua những số liệu trên, ta thấy cùng kiệt đói toàn cầu vẫn đang là vấn đề mang tính bức xúc. Điều này còn được thể hiện ở sự bất bình đẳng cao trên thế giới, theo số liệu của WB, thu nhập trung bình của 20 nước giàu nhất gấp 37 lần mức thu nhập trung bình của 20 nước cùng kiệt nhất (khoảng cách này đã tăng gâp đôi trong vòng 40 năm qua). Nếu phân chia toàn bộ dân số thế giới, và chiếm một lượng của cải vật chất và trình độ tương ứng với mỗi nhóm thì ta có thể thấy: 20% dân số giàu nhất thế giới chiếm dụng 87,5% GNP; 84,2% thương mại thế giới; 85,0% tích luỹ; 85,0% đầu tư trong khi đó 20% dân số cùng kiệt nhất chiếm các chỉ tiêu tương ứng là 1,46%; 0,9%; 0,7% và 0,9%. Rõ ràng là một nhóm người thì có tất cả còn nhóm kia coi như không có gì.
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, hiện nay, loài người thực tế đã sản xuất đủ lương thực, thực phẩm để nuôi sống toàn bộ hành tinh, nếu tính lượng Kcalo bình quân đầu người. Nhưng vấn đề lại là ở việc phân phối chúng như thế nào. 20% dân số giàu nhất tiêu dùng 87-90% giá trị sản phẩm của toàn thế giới, 6% số người giàu nhất đã tiêu dùng 35-40% sản phẩm của thế giới. Do vậy, cùng kiệt đói, bệnh tật và suy dinh dưỡng có thể coi là điều tất yếu với nhóm dân số nghèo.
Sự bất bình đẳng cao còn thể hiện giữa các giới, tỷ lệ người cùng kiệt đói trong giới phụ nữ vẫn trầm trọng hơn nam giới. Phụ nữ chiếm 60% lực lượng lao động trên thế giới nhưng họ chỉ hưởng 10% thu nhập và sử dụng chưa đầy 1% ruộng đất của thế giới, chiếm 1/6 trong số 6 tỷ người của thế giới hiện đang thiếu dinh dưỡng. Có từ 20-40% phụ nữ ở các nước đang phát triển không thể có chế độ ăn phù hợp, 350 triệu phụ nữ không được hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tối thiểu cần thiết. Riêng khu vực Nam Á, được đánh giá là nơi có sự phân hoá giàu cùng kiệt chậm hơn cả, thì vẫn còn tới 80% số phụ nữ mang thai bị thiếu máu, số người thiếu dinh dưỡng lên tới 841 triệu(1) Xem báo Nhân dân, 9/1/1996
.
Qua bức tranh đói cùng kiệt trên của thế giới, ta có thể khẳng định rằng cùng kiệt đói vẫn là tình trạng mang tính toàn cầu và đang là hiện tượng bức xúc hiện nay. Báo cáo của Liên hiệp quốc cho rằng, tình trạng đói cùng kiệt trên thế giới, nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự khai phá đến kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, chiến tranh, bùng nổ dân số, phân phối không công bằng trong xã hội, do các như cầu thiết yếu bị bỏ qua (bảo hiểm xã hội, nguồn nước, vệ sinh...) do quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý là trở ngại lớn trên con đường đi lên của các đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với Liên hiệp quốc.
Đói cùng kiệt còn là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng tội phạm, bạo lực, mất an ninh xã hội. Nó không những mang lại hậu quả kinh tế - xã hội nghiêm trọng cho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân quan trọng của xung đột. Vì vậy, giảm bớt và đi đến xoá đói cùng kiệt đói đã trở thành ...

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status