Khảo sát viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt - pdf 15

Download miễn phí Khảo sát viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt



Về vi khuẩn học: kết quả nghiên cứu của chúng tôi chúng tôi nhận thấy vi
khuẩn Streptoccocuschiếm đa số, đến 24 trường hợp (38%) kế đến là
Klebsiella15 trường hợp (23%) Staphyloccocus7 trường hợp (11%),
Pseudomonas5 trường hợp (8%). Burkholderia Pseudomallei2 trường hợp
(3%).



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

KHẢO SÁT VIÊM MẠC HOẠI TỬ VÙNG CỔ MẶT
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu đặc điểm về lâm sàng và hình ảnh học, vi
khuẩn học, mô học và điều trị của bệnh lý viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: 63 bệnh nhân
viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt được điều trị tại Khoa tai mũi họng bệnh viện
Chợ Rẫy.
Phương pháp nghiên cứu: phân tích về dấu hiệu, triệu chứng lâm sàng, hình
ảnh CT scan, vi khuẩn học giải phẫu bệnh ở những bệnh nhân viêm mạc hoại
tử vùng cổ mặt.
Kết quả: Từ tháng 10/2007-07/2008 Khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy
điều trị 63 trường hợp viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt. Nguyên nhân thông
thường nhất là do răng, kế đến là do chấn thương và dị vật. Triệu chứng lâm
sàng chủ yếu là đau, sưng đỏ vùng tổn thương, da có bong nước. Biến chứng là
viêm trung thất, tràn dịch màng phổi, tắc đường thở và sốc nhiễm khuẩn. Dấu
hiệu thấy trên CT scan là hình ảnh dầy lớp cơ bám da vùng cổ, dầy lan toả các
lớp mạc, có dịch và ứ khí ở các khoang cổ. Vi khuẩn gây bệnh vừa ái khí vừa
yếm khí, đa số do streptococcus và staphylococcus. Giải phẫu bệnh: có sự hoại
tử lớp mạc, thâm nhập bạch cầu đa nhân, huyết khối và ứ mủ các tĩnh mạch và
động mạch đi qua các mạc vùng họai tử.
Kết luận: Viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có đặc
điểm là sự hủy hoại tăng dần các mạc và mô dưới da. Viêm mạc hoại tử vùng
cổ mặt do cả vi khuẩn ái khí và kỵ khí gây ra. Việc xử trí dựa trên 5 bước căn
bản là: chẩn đoán sớm, mổ dẫn lưu mủ kịp thời, kháng sinh phổ rộng, hồi sức
và dinh dưỡng nậng đỡ tổng trạng tích cực.
ABSTRACT
NECROTIZING FASCIITIS OF THE FACE AND NECK
Dang Thi Thuy Trang, Tran Minh Truong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 208 –
212
Objectives: This research was studied of the clinical characteristics, radiologic,
bacteriologic, histologic and therapeurtic of facio-cervical necrotizing fasciitis.
Materials and methods: we analysed sixty-thirst patients of necrotizing
fasciitis of the face and neck with clinical symptoms, computed tomography,
bacterial cultures, histology and management in its.
Results: From 10/2007-07/2008 the Department of Otolaryngology of Choray
hospital received 63 patients with necrotizing fasciitis of the face and neck.
Dental infections are the most common etiology, followed by trauma and
foreign body. Physical findings are pain over an area with associated skin
changes, erythema, skin vesicles. The complication that have been
mediastinitis, pleural effusion, airway obstruction and septic shock. CT features
include enhancement and thickening of cervical fasciae and of the plastysma,
fluid collections in neck compartments and gas collections. The bacteriology
consists of anaerobes, gram negative, group A beta-hemolytic strep, and
staphylococcus species. Histologically, necrosis of the fascia,
polymorphonuclear leuko cyte infiltration of the fascia, thrombosis and
suppuration of the vein and arteries coursing through the fascia.
Conclusion: Necrotizing fasciitis of the face and neck is a soft-tissue infection
characterized by progressive destruction of fascia and adipose tissue.The
development of necrotizing fasciitis of the face and neck related to synergistic
infections of aerobic and anaerobic organisms. Management of necrotizing
fasciitis of the face and neck is based on five basic principles: early diagnosis
and debridement, broad-spectrum antibiotics, aggressive resuscitation and
aggressive nutritional support
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm mạc hoại tử là bệnh lý thuộc nhóm nhiễm khuẩn và có thể xảy ra bất
cứ vị trí nào trên cơ thể. Viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt ít gặp hơn nhưng là
bệnh lý gây nguy hiểm hơn vì gần sọ não, liên quan trực tiếp đến đường thở
và nhiễm khuẩn có thể lan trung thất. Từ trước những năm 80 có rất ít báo
cáo về viêm mạc hoại tử nhưng những năm gần đây có nhiều báo cáo hơn về
bệnh lý này. Tuy nhiên viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt còn tương đối hiếm,
do đó hiểu hiết về bệnh lý này còn hạn chế mặc dù đây là bệnh lý nhiễm
khuẩn cấp tính nguy hiểm.Tại Khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy chúng
tui gặp nhiều trường hợp viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt đến bệnh viện với
bệnh cảnh lâm sàng thật đa dạng, có trường hợp bệnh nhân đến sớm nhưng
đa số đến trong giai đoạn muộn của bệnh, có trường hợp đã có biến chứng
nên việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Để hiểu rỏ bệnh lý này cần biết về
giải phẫu các lớp mạc vùng cổ. Lớp mạc ở cổ được chia làm 2 lớp. Lớp mạc
nông và lớp mạc sâu. Lớp mạc nông là lớp nông nhất bao các cơ biểu hiện
nét mặt và cơ bám da ở cổ. Lớp mạc sâu chia làm 3 lớp: lớp nông, lớp giữa
và lớp sâu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng là những bệnh nhân có ổ nhiễm khuẩn vùng cổ mặt nhập viện Khoa
tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy từ 10/2007-07/2008 được chẩn đoán viêm
mạc hoại tử vùng cổ mặt với những dấu hiệu về lâm sàng, cận lâm sàng và
phẫu thuật như sau: lâm sàng: tiền sử, triệu chứng lâm sàng và khám thực thể.
Cận lâm sàng: công thức bạch cầu, ion đồ, CT scan, giải phẫu bệnh và vi khuẩn
học.
Thu thập dữ kiện
Bệnh nhân nhập viện tại Khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy được khám
lâm sàng, làm các xét nghiệm cận lâm sàng như công thức máu, đường
huyết, ion đồ, XQ phổi thẳng, CT scan. Sau đó bệnh nhân được chỉ định
phẫu thuật sẽ được làm tiếp các xét nghiệm vi khuẩn học và giải phẫu bệnh.
Thông tin về hành chính, lâm sàng, xét nghiệm cận lâm sàng của mỗi bệnh
nhân và theo dõi trong quá trình điều trị được điền vào bảng thu thập số liệu.
Tiến hành nghiên cứu.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Qua 63 trường hợp viêm mạc hoại tử vùng cổ mặt chúng tui nhận thấy tuổi
trung bình từ 20-60 trong đó tỉ lệ nam nữ không khác biệt. Thời gian khởi phát
bệnh đến lúc bệnh nhân nhập viện Khoa tai mũi họng bệnh viện Chợ Rẫy là từ
2 - 10 ngày và trung bình là 5 ngày. Trong 63 trường hợp có 29 trường hợp có
bệnh đái tháo đường kèm theo chiếm tỉ lệ 46%.
Về nguyên nhân đa số do răng là chủ yếu. Triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng
như là: đau, bóng nước, đỏ da, hoại tử da. Trong đó đau cũng là triệu chứng
khởi đầu của bệnh (Error! Reference source not found.). Khảo sát của chúng
tui có đến 95% trường hợp đều ghi nhận có triệu chứng đau khi bệnh khởi phát.
Quan sát vùng da nơi vị trí bị nhiễm khuẩn, chúng tui thấy phần lớn các trường
hợp da sưng nề màu đỏ 52 trường hợp (82,54%), da có nổi bong nước 9 trường
hợp (14,29%), có hoại tử da màu thâm đen 2 trường hợp (3,18%), dấu hiệu lép
bép của bóng khí dưới da 11 trường hợp (17,46%). Theo khảo sát của chúng
tôi, nhóm có nguyên nhân chủ yếu là nhiễm khuẩn từ răng là chủ yếu có 39
trường hợp chiếm 62%, có 7 trường hợp do dị vật đường ăn (11,11%), chấn
thương 3 trường hợp (4,76%). Nhóm không rỏ nguyên nhân 14 trường hợp
(22,2%). Theo tác giả Chen Ho, nguyên nhân gây bệnh là nhiễm khuẩn do răng
chiếm nhiều nhất 80%, kế đến là do vết thương da vùng cổ hay niêm mạc và do
những thao tác phẫu thuật, thủ thuật chiếm 25% các trường hợp viêm mạc họai
tử vùng cổ, viêm amidan khẩu cá...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status