Báo cáo thực tập Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội - pdf 15

Download miễn phí Báo cáo thực tập Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội



Năm 1990, Công ty đã mạnh dạn mở hướng đầu tư liên doanh với nước ngoài qua dự án khách sạn Phương Đông và liên doanh này đang phát huy có hiệu quả. Năm 1993 Công ty liên doanh với Singapore xây dựng tổ hợp khách sạn và văn phòng cho thuê tiêu chuẩn năm sao, Tháp trung tâm Hà Nội. Năm 1995, một liên doanh thứ ba gồm 4 bên Bắc Kinh, Hồng Kông và Việt Nam thành lập Công ty Xây dựng Hà Nội - Bắc Kinh đã được cấp giấy phép đầu tư và đi vào hoạt động, Công ty đã cùng các bên đối tác nước ngoài tổ chức thực hiện các dự án liên doanh đảm bảo tiến bộ, nhanh chóng phát huy hiệu quả của vốn đầu tư.
Trong cơ chế mới, Công ty đã từng bước đứng vững và có tín nhiệm với khách hàng, cùng với chất lượng luôn được đảm bảo là tiến độ thi công nhanh, dứt điểm gọn, hạ giá thành, đồng thời chú ý đến lợi ích của cácung cấp bên tham gia liên doanh, liên kết.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Công ty xây dựng dân dụng Hà Nội
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
Công ty Xây Dựng Dân Dụng Hà Nội được thành lập tháng 3/1972 theo quyết định số 121/TCCQ của UBHC thành phố Hà Nội để thực hiện nhiệm vụ chuyên xây dựng các công trình dân dụng, dịch vụm phúc lợi công cộng của thành phố.
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty có thể chia thành các giai đoạn:
1.1. Giai đoạn 1972 - 1975
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập Công ty Xây Dựng Dân Dụng Hà Nội đã lập được nhiều chiến công xuất sắc như: chống lụt tại đê quoai Thanh Trì, cứu sập, giải quyết hậu quả ở kho lương thực Vĩnh Tuy, khu phố Khâm Thiên...., san lấp hố bom, sửa chữa, khôi phục các xí nghiệp, trường học, bệnh viện... được hội đồng Nhà nước tặng thưởng 01 huân chương chiến công hạng ba.
Về sản xuất kinh doanh, thời kỳ này Công ty mới được thành lập từ những đơn vị có quy mô vừa và nhỏ, vốn liếng ít ỏi, cả Công ty có 4.350.000 đồng cơ sở vật chất nhỏ bé lại phân tán, máy móc thiết bị già cỗi, lạc hậu, thiếu đồng bộ lại phải nhanh chóng tập trung xây dựng một đơn vụ đủ sức xây dựng các công trình lớn đa dạng, phức tạp, đòi hỏi kỹ mỹ thuật cao của thành phố.
Tuy vốn XDCB bị cắt giảm do phải tập chung cho chiến tranh nhưng trong các năm 1973 - 1975 Công ty vẫn hoàn thành vượt mức kế hoạch hàng năm đã bàn giao được 114 công trình với 99.086m2. Sau thời kỳ này tổ chức của Công ty ngày một vững vàng, lực lượng sản xuất ngày một phát triển về số lượng và chất lượng, cơ sở vật chất đã được tăng thêm, tổ chức thi công đã có nhiều tiến bộ, Công ty Xây Dựng Dân Dụng Hà Nội ngày càng củng cố thêm lòng tin của các bộ lãnh đạo cấp trên cũng như cảm tình của nhân dân thủ đô.
1.2. Giai đoạn 1976 - 1986.
Giai đoạn này Công ty nhận được khối lượng công trình gấp đôi so với giai đoạn trước, để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ Công ty đã nhanh chóng xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời quan tâm đến hạch toán kinh tế và chỉ tiêu kỹ thuật.
* Về tổ chức sắp xếp lại sản xuất và bố trí cán bộ.
Đầu năm 1976 Công ty đã có 2765 cán bộ công nhân viên các năm sau đã liên tục tiếp nhận hàng năm từ 200 - 400 học sinh học nghề ở trường đào tạo công nhân số 3 của Công ty ra trường. Đầu năm 1977 do yêu cầu phát triển xây dựng, thành phố đã quyết định tách phân xưởng bê tông của Công ty ở Vĩnh Tuy thành lập xí nghiệp bê tông Vĩnh Tuy, tách xí nghiệp cửa gỗ dân dụng của Công ty ở Giáp Bát thành xí nghiệp mộc cửa Giáp Bát, tách đội xây dựng 6 của Công ty sang xí nghiệp nhà xưởng, tách công trường 1 ở Đông Anh cùng với công trường của Công ty Xây Lắp Công nghiệp thành Công ty Xây dựng Đông Anh trực thuộc Sở Xây dựng.
Năm 1981 Công ty Xây dựng nhà ở số 4 lại được sát nhập vào Công ty Xây Dựng Dân Dụng Hà Nội song hàng năm Công ty vẫn phải tuyển thêm hàng trăm học sinh trung cấp, kỹ thuật, nghiệp vụ, hàng trăm lao động phổ thông ở các quận, huyện, nội, ngoại thành. Đến năm 1984 Công ty đã có 4048 CBCNV, đây là thời kỳ Công ty có số cán bộ công nhân viên đông nhất. Dưới Công ty là tổ chức các công trường có quy mô lớn thường có từ 400 - 500 công nhân, đặc biệt công trường 1 có lúc lên đến 700 người. Văn phòng của Công ty có lúc đông nhất đến 187 người.
Sau khi phân xưởng bê tông, xí nghiệp mộc của Công ty tách ra, để chủ động cung cấp một số cấu kiện bê tông, cửa gỗ Công ty phải xây dựng ngay một đội bê tông và một đội mộc trực thuộc Công ty.
Thời kỳ này, lực lượng CBCNV phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng. Trong 10 năm Công ty đã đào tạo được hơn 300 học sinh học nghề bậc II gần 400 thợ bậc III, bồi dường hơn 200 tổ trưởng sản xuất, nâng bậc được hàng trăm thợ kỹ thuật bậc V, bậc VI... Do đó, trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ được nâng cao, là nhân tố quan trọng giúp Công ty hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, được Sở Xây dựng đánh giá là một đơn vị làm tốt công tác đào tạo và quy hoạch cán bộ.
Trong công tác quản lý Công ty đã chú trọng tới công tác quản lý kinh tế nội bộ bằng nhiều biện pháp và hình thức như thành lập thêm phòng kinh tế, phòng tổng thầu kế hoạch 3, từng bước tiến hành thí điểm theo tinh thần của Bộ tài chính và Ngân hàng Kiến thiết cấp vốn lưu động cho đơn vụ xây lắp, thực hiện thanh toán gọn theo kiểu chìa khoá trao tay, áp dụng thí điểm tổng thầu khoán gọn. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đến năm 1981 Công ty không phải đề nghị Nhà nước bù lỗ, từ năm 1982 trở đi đã có một phần tích luỹ.
Song song với việc phát triển lực lượng, phát triển sản xuất tăng cường công tác quản lý kỹ thuật Công ty đã duy trì một phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất...
Thời kỳ này Công ty đã được tặng thưởng một huân chương lao động hạng ba cùng nhiều cở thưởng thi đua, bằng khen xuất sắc của Uỷ ban nhân dân thành phố, Tổng Công Đoàn Việt Nam.
1.3. Thời kỳ 1987 đến nay.
Đây là thời kỳ chuyển đổi cơ chế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường hoạt động xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Giai đoạn này Công ty còn 3603 người, tổ chức sản xuất theo mô hình 4 cấ: Công ty, công trường, công trình, tổ. Nhiều đầu mối trung gian cồng kềnh kém hiệu lực, vốn tự có không có là bao, thường xuyên phải vay nợ ngân hàng, đã có lúc phải vay tới 1,5 tỷ đồng.
Sau một thời gian trăn trở, Công ty đã tiến hành sắp xếp lại sản xuất và lực lượng lao động, hình thành mô hình 3 cấp: Công ty - đội - tổ sản xuất, tổ chức hạch toán và phân cấp quản lý kinh tế trong nội bộ trên cơ sở sẵn có, đã tìm ra hướng đi đúng đắn và thích hợp với cơ chế. Công ty đã tạo ra một phần vốn, từng bước xây dựng được lòng tin và chữ tín với khách hàng, đồng thời luôn đảm bảo cơ chế chính sách pháp luật, đảm bảo hài hoà giữa ba lợi ích Nhà nước - tập thể - người lao động. Công ty đã xác định được chỗ đứng của mình trong cơ chế thị trường cho tới ngày nay đang từng bước phát triển đi lên.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty đã nhanh chóng chuyển từ cách làm thuê sang kết hợp cách kinh doanh bất động sản, tăng cường liên doanh, liên kết, nắm chắc thông tin kinh tế kỹ thuật, bám sát thị trường, chủ động tham gia đấu thầu, nhận thầu khai thác kịp thời các điều kiện thuận lợi mà Thành phố và Sở Xây dựng đã mở ra để khai thác, tìm kiếm việc làm, tận dụng đất xây dựng nhà bán, trên cơ sở pháp lý cho phép.
Năm 1998 Công ty đã vay vốn của Nhà nước trên 1 tỷ đồng để chủ động trong sản xuất kinh doanh và chỉ sau hai năm Công ty đã trả hết nợ đồng thời cân đối giữa tích luỹ và thu nhập, đảm bảo không ngừng nâng cao thu nhập cho cán bộ công nhân viên thành một tỷ lệ thích hợp cho phát triển vốn. Mặt khác, tích cực huy động vốn bằng hình thức liên doanh với các đối tác có vốn để đầu tư kinh doanh bất động sản.
Năm 1990, Công ty đã m
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status