Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ ở Việt Nam theo mục tiêu công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Biện chứng của quá trình phát triển giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ ở Việt Nam theo mục tiêu công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá



Khác với các nguồn lực khác – chỉ ở dạng tiềm năng - thì con người là một nguồn lực vô tận, một nguồn lực với việc tư duy của mình đã tác động tới các nguồn lực khác để biến chúng thành những thứ để phục vụ mục đích và lợi ích cho chính bản thân con người. Vì con người có tư duy, có trí tuệ, có ý chí và biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp tác động vào quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước.
Con người là một nguồn lực vô tận nó khác với các nguồn lực khác chỉ là hữu hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo và bồi dưỡng, khai thác hợp lý.
Trí tuệ của con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ-kỹ thuật hiện đại đang dẫn đến nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ, do bàn tay bộ óc, trí tuệ của con người tác động vào làm biến đổi lịch sử phát triển của mình.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

c đích của quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam:
a. Tính tất yếu:
Loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội. Mỗi hình thái sau tiến bộ hơn, văn minh hơn hình thái trước. Mỗi hình thái kinh tế có một cách sản xuất nhất định được xác lập trên cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Nguyên nhân sâu xa của sự thay đổi hình thái kinh tế này bằng hình thái kinh tế khác tiến bộ hơn đó là do trong xã hội đó tồn tại những mâu thuẫn đối kháng không thể điều hoà được giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Kết quả là một hình thái kinh tế mới ra đời mà cao nhất là chủ nghĩa cộng sản với tiền đề là chủ nghĩa xã hội đưa xã hội không còn tình trạng bóc lột, mọi người đều bình đẳng, sinh hoạt lao động dưới sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ tập chung dân chủ công bằng xã hội. Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển cao sơ sở hạ tầng phù hợp với kiến trúc thượng tầng.
Có rất nhiều cách để tiến hành lên chủ nghĩa xã hội, cũng có thể tuần tự trải qua từng hình thái kinh tế, nhưng có thể nhảy vọt bằng cách bỏ qua một vài hình thái kinh tế. Việt Nam đã chọn con đường thứ hai đó là con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản. Nhưng chúng ta vẫn bị mắc những sai lầm trong quá trình quá độ, nên nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn ở trong tình trạng cùng kiệt nàn và lạc hậu. Vì vậy muốn thoát khỏi tình trạng cùng kiệt nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ một nước phát triển bằng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội tất yếu phải tiến hành quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
b. Mục đích:
Mục tiêu của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII khẳng định: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Cơ cấu kinh tế lập hiến, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, và nước ta đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH”. Đây là nhận định rất quan trọng đối với những bước tiếp theo trong sự nghiệp đổi mới. Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì cần phát triển toàn diện nền kinh tế trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, dịch vụ, phát huy tính chủ động sáng tạo của chủ thể các thành phần kinh tế của nền kinh tế nhiều thành phần. Xuất phát điểm của nước ta rất thấp (là một nước nông nghiệp cùng kiệt nàn, lạc hậu), vì vậy phát triển nền kinh tế một cách toàn diện sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Điều quan trọng trong mục tiêu trên đó là quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có như vậy mới thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát triển, và một cách sản xuất mới ra đời phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, đẩy mạnh nền kinh tế đất nước phát triển.
Tận dụng những tiềm năng sẵn có, tài nguyên thiên nhiên phong phú, điều kiện khí hậu thuận lợi, nguồn lao động dồi dào…Do đó cần có những mục tiêu, chính sách phát triển công nghiệp - là ngành đóng góp GDP vào loại cao nhất trong tất cả các ngành kinh tế - đặc biệt là ngành công nghiệp nhẹ mà trước đây hầu hết các nước tư bản coi như đây là một biện pháp chủ yếu để tiến hành các cuộc cách mạng, đưa đất nước trở thành cường quốc kinh tế phát triển phát triển nhất trên toàn thế giới: Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản…
Thực trạng sự nghiệp CNH-HĐH ở Việt Nam:
Sau khi đất nước ta hoàn toàn được giải phóng, nước ta đi theo con đường XHCN, nhưng trong giai đoạn đầu của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, nước ta đã mắc phải những sai lầm rất quan trọng, đã đẩy đất nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, lạm phát phi mã nghiêm trọng, nạn quan liêu bao cấp, trì trệ trong sản xuất. Sản phẩm làm ra không đủ chất lượng, công tác hành chính thì bảo thủ, quan liêu do chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lý điều hành không nhạy bén, nhân dân lao động lười nhác có tính ỷ lại, không năng động sáng tạo, không quan tâm đến kết quả đạt được, đã dẫn đến một thực tế từ trên xuống dưới hoạt động không thống nhất.
Chúng ta vì muốn rút ngắn thời kỳ quá độ chúng ta đã tuyệt đối hoá nhân tố chủ quan và chính trị cho rằng chỉ cần nội dung và sự lãnh đạo của Đảng cộng sản thì chúng ta có thể làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng thời do chưa hiểu thấu đáo về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã hành động trái quy luật, vận dụng một cách dập khuân máy móc, giáo điều mô hình kinh tế của người khác, trong khi những mô hình kinh tế đó chỉ là sản phẩm của tưởng tượng chủ quan duy ý thức. Chính vì vậy chúng ta đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và về thực chất là theo đường lối: “đẩy mạnh xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, thiết lập một chế độ công hữu với thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể”.
Kết quả là trong nông nghiệp nước ta nhiều năm đã lâm vào cuộc khủng hoảng. Sản phẩm lương thực không đủ đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Nông nghiệp lạc hậu làm cho sử dụng lãng phí nguồn đất đai, sức lao động , vốn cơ sở vật chất kỹ thuật của xã hội, làm cho thị trường rộng lớn của nông thôn không phát triển kéo theo kìm hãm sự phát triển của các ngành khác. Đồng thời làm cho khoảng cách giàu cùng kiệt giữa thành thị và nông thôn càng lớn, làm tăng các làn sóng di cư từ nông thôn vào thành thị tạo nên những tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến trật tự an ninh.
Trong công nghiệp, đã có thời gian chúng ta “ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng coi đó là giải pháp cơ sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp, mà không coi trọng đúng mức của sự phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Kế hoạch kinh tế của nước ta hầu như dậm chân tại chỗ, không phát huy được năng lực sáng tạo của tầng lớp nhân dân lao động, cùng với nguồn vốn ít ỏi không cung cấp đầy đủ cho nghiên cứu khoa học và ứng dụng chúng trong thực tiễn sản xuất. Trong khi đó thì khoa học công nghệ phát triển như vũ bão ở các nước phát triển trên thế giới. Sự tiến chậm so với khoa học kỹ thuật của thế giới, đã làm cho kinh tế nước ta lạc hậu và chậm phát triển hơn rất nhiều.
Một sai lầm nữa mà chúng ta mắc phải đó là phủ nhận quy luật giá trị sản xuất hàng hoá kinh tế thị trường. Đây là do nhận thức chủ quan nóng vội của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn đó, đã làm cho nền kinh tế đã cùng kiệt lại còn cùng kiệt hơn.
Các gi...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status