M.Heidegger với tồn tại và thời gian - pdf 16

Download miễn phí M.Heidegger với tồn tại và thời gian



Tồn tại dẫn tới cái chết, sự hiện sinh không đích thực và hiện sinh đích thực.
Theo M.Heidegger, trong quá trình sinh tồn và phát triển của mình, con người
với những môi trường sống khác nhau tất yếu sẽ nhận ra vị trí của mình trong
bối cảnh sống đó và vì vậy, con người sẽ chống lại bối cảnh ấy nhờ thiết kế sinh
tồncủa mình. Nhưng, vì con người cần biểu thị sự quan tâm của mình về
mặt bản thể, tức là về mặt hiện hữu và tính thực tại của cái hiện hữu, nên nó
không vượt qua được khuôn khổ của sự hiện sinh không đích thực(9). Con
người, bằng những hành vi của mình, đã tạo lập cho mình những mối quan hệ xã
hội trong môi trường sống của mình và điều này, vô hình trung, đã ràng buộc
con người ở cấp độ sự kiện.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

M.HEIDEGGER VỚI “TỒN TẠI VÀ THỜI GIAN”
NGUYỄN LÊ THẠCH (*)
Martin Heidegger (26/11/1889 - 26/5/1976) là một triết gia Đức, người triển
khai hiện tượng luận hiện sinh, đặt nền tảng cho triết học hiện sinh và được thừa
nhận rộng rãi với tư cách một triết gia độc đáo, có ảnh hưởng vào bậc nhất của
thế kỷ XX. Với những đóng trong triết học của ông, có người đã nhận xét: Tầm
vóc lỗi lạc của ông chỉ có triết gia Đức Wittgenstein mới sánh được(1).
M.Heidegger sinh tại Messkirche, Baden và từng là học trò của Rickert. Ông
nghiên cứu thần học Công giáo La Mã và sau đó là triết học tại Đại học
Freiburg, nơi ông là trợ giảng cho triết gia Edmund Husserl - người sáng lập
hiện tượng luận. Năm 1914, ông bảo vệ luận án tiến sĩ triết học "Học thuyết về
phán đoán trong chủ nghĩa duy lý"; sau đó, ông lại tiếp tục bảo vệ luận án "Học
thuyết Duns Scotus về phạm trù và nghĩa" (một triết gia tôn giáo và đạo đức thế
kỷ XIV). M.Heidegger bắt đầu giảng dạy triết học tại Đại học Freiburg từ năm
1915 với tư cách trợ giảng cho Husserl. Từ năm 1923 đến năm 1928, ông giảng
dạy tại Đại học Marburg. Vào khoảng năm 1928 - 1929, khi Husserl qua đời,
M.Heidegger đã trở về Đại học Freiburg để thay thế cho Husserl với tư cách
giáo sư Trưởng Khoa Triết học. Ủng hộ công khai đối với Adolf Hitler và Đảng
Quốc xã, ngày 1 tháng 5 năm 1933, M.Heidegger (cùng với nhà khoa học và trí
thức Đức Carl Schmitt) gia nhập Đảng Quốc xã(2). Năm 1934, ông đã được bổ
nhiệm làm Hiệu trưởng Trường Đại học Freiburg, nhưng sau đó, những hoạt
động hàn lâm của ông bị hạn chế vào năm 1945 và người ta không ngừng tranh
cãi về tư cách giáo sư đại học của ông mãi cho đến khi ông về hưu năm 1959.
Trong cuộc đời nghiên cứu lý luận của mình, M.Heidegger đã công bố nhiều
công trình nghiên cứu có giá trị, như Sein und Zeit - Tồn tại và thời gian (1927);
Die Grundprobleme der Phaenomenologie - Những vấn đề căn bản của hiện
tượng luận (1927); Kant und das Problem der Metaphysik - Cantơ và vấn đề
siêu hình học (1929); Was ist Metaphysik? - Siêu hình học là gì? (1929); Vom
Wesen der Wahrheit - Về bản chất của chân lý (1930); Was ist das - die
Philosophie? - Triết lý là gì? (1956); Nietzsche (1961)...
Như chúng ta đã biết, M.Heidegger là học trò lớn nhất của Husserl (khởi đầu
nghiên cứu của ông là một nhà hiện tượng luận dưới sự hướng dẫn của Husserl),
nhưng, điều thú vị là chính ông đã trở thành "đối thủ" lớn nhất của Husserl trong
triết học(3). M.Heidegger đã xuất phát từ hiện tượng học Husserl; hơn nữa, cả
hai ông luôn phê phán lẫn nhau và điều quan trọng là sự phê phán đó đóng một
vai trò rất quan trọng đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng của cả hai nhà
triết học. M.Heidegger đặc biệt quan tâm tới vấn đề tồn tại (being) và tác phẩm
mang lại tên tuổi cho ông là Tồn tại và thời gian (1927). Trong lần đầu tiên xuất
bản, tác phẩm này mới chỉ trình bày được một phần ba toàn bộ “dự phóng triết học”
đã vạch ra trong lời dẫn nhập, song nó vẫn được coi là một bản thể luận về hiện
tượng(4) và tạo ra một bước ngoặt trong triết học châu Âu, gây nên sự bàn luận
nhiều nhất trong thế kỷ XX.
Ý niệm về tồn tại là chủ đề nghiên cứu chủ yếu trong suốt chiều dài lịch sử triết
học phương Tây từ thời Parmenides. Theo M.Heidegger, tồn tại hay cái thường
hằng không thấy được đằng sau mọi biến thể đã bị lãng quên trong thời đại Ánh
sáng và công việc cần thiết bây giờ là phải phục sinh nó đúng với ý nghĩa vốn có
của nó. M.Heidegger đã cố gắng đưa tồn tại vào trong lịch sử, tức thời gian để từ
đó, khám phá ra bản chất thực sự của nó. Rõ ràng, đây là điều hoàn toàn trái
ngược với lôgíc, bởi tồn tại - nếu nó tồn tại - theo như định nghĩa, không bị ảnh
hưởng bởi thời gian hay lịch sử. Thuộc tính thực của nó chống lại lịch sử, trái
ngược với những gì đang diễn ra. Đi từ chỗ bắt đầu của tồn tại, khởi nguồn trong
tư tưởng triết học Hy Lạp cổ đại và bằng việc kế thừa tư tưởng tinh tuý của
Nietzsche, M.Heidegger đã đánh giá lại Platôn một cách nghiêm túc, đồng thời
gạt bỏ toàn bộ thế giới quan duy tâm trong học thuyết Platôn. Ông coi tồn tại
như một đối tượng của thời gian và lịch sử để khôi phục lại một vấn đề đã bị
lãng quên và bị coi nhẹ trong triết học đương đại.
M.Heidegger đã từng bộc bạch trong Tồn tại và thời gian là phải nghiên cứu cụ
thể, làm rõ mục đích của tồn tại và để làm rõ được mục đích này thì cần
hiểu ai hỏi về mục đích của tồn tại. Tư tưởng này đã được ông thể hiện trên một
số phương diện sau:
1. Tồn tại ở đây và phương pháp phân tích hiện sinh. Việc giải quyết vấn đề tồn
tại có nghĩa là làm sáng tỏ một cái hiện hữu cụ thể, xác định và chính con người
đang tìm kiếm mục đích của tồn tại. Điều này có nghĩa là, chỉ có thể hiểu được
vấn đề mục đích của tồn tại nếu chúng ta biết rõ có thể đạt tới mục đích của tồn
tại thông qua cái hiện hữu(5). M.Heidegger viết: "Để lý giải vấn đề tồn tại một
cách hoàn toàn rõ ràng thì đầu tiên cần giải thích rõ cách thâm nhập
vào tồn tại, cách thấu hiểu và nắm bắt mục đích của nó bằng khái niệm,
cũng như cần giải thích rõ khả năng của một cái hiện hữu xác định với tư
cách khuôn mẫu và khả năng chỉ ra con đường tiếp cận thật sự với nó"(6). Theo
ông, con người ở đây không phải chỉ là sự tồn tại giản đơn, mà còn là chủ thể
hỏi về mục đích tồn tại của mình, thậm chí còn muốn làm sáng tỏ cái thực tồn
đang hỏi đó là gì? Chính M.Heidegger đã trả lời: "Cái thực tồn này là bản thân
chúng ta, trong số nhiều khả năng tồn tại khác thì chúng ta còn có một khả năng
bắt buộc chúng ta tìm kiếm một cái được biểu thị như là Dasein, tồn tại - hiện
hữu - ở đây"(7). Với ý nghĩa này, có thể thấy mọi sự vật dù có khác nhau đến
đâu đi chăng nữa thì chúng cũng đều là những khách thể (ob-jecta) được đem lại
trước cho tui và con người là cái hiện hữu: đối với nó thì các sự vật thể hiện
như những cái hiện diện và nó tồn tại là sự hiện sinh. Theo ông, tính chất của sự
hiện sinh không phải là sự hiện diện đơn giản mà trái lại, Dasein là tồn tại trong
khả năng, là cái có thể tồn tại, cho nên Dasein ở đây không phải là khả năng
lôgíc thuần tuý và càng không phải là những điều ngẫu nhiên, kinh nghiệm.
Dasein ở đây chính là việc con người có khả năng hiện thực hoá và có thể quyết
định vận mệnh của bản thân mình mà không phải một Ai - cái tui khác có
quyền quyết định bản thân Tôi. Như vậy, Dasein ở đây có hai mặt. Thứ nhất, trên
phương diện chủ thể, Dasein là chính con người, vì con người hiện hữu như một
hiện diện. Thứ hai, xét về phương diện đối tượng, Dasein là thế giới mà con người
đã nhờ tri giác để khai minh và làm cho nó xuất hiện. Đến đây, chúng ta đã phần
nào hiểu được ý nghĩa chữ Dasein và mối tương quan hiện hữu giữa con người và
cái thế giới m...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status