E. Husserl (1859 -1938) -Nhà hiện tượng học - pdf 16

Download miễn phí E. Husserl (1859 -1938) -Nhà hiện tượng học



Điểm khác biệt giữa chủ nghĩa duy tâm hiện tượng học của Husserl với chủ nghĩa
duy tâm truyền thống là ở chỗ, mặc dù vẫn thừa nhận sự tồn tại hiện thực của thế
giới xung quanh, nhưng ông không trực tiếp bàn đến vấn đề đó, mà lại tập trung
luận giải việc con người nhìn nhận, cảm giác như thế nào về thế giới ấy, tức là, nói
về tính chủ thể hay vị thế của con người trong thế giới. Ông cho rằng, “chủ nghĩa
duy tâm hiện tượng học không phủ nhận sự tồn tại thực của thế giới hiện thực và
coi nó như một ảo giác Thành tựu và nhiệm vụ duy nhất của nó là làm rõ cảm
giác của con người về thế giới này -cái cảm giác mà nhờ đó tất cả chúng ta đều
nhìn nhận thế giới như nó đang tồn tại và có giá trị thực sự”(3). Vì thế, với hiện
tượng học, Husserl muốn trả lại cho triết học ý nghĩa nhân sinh đích thực của nó.
Với ông, triết học theo đúng nghĩa của nó phải bàn đến việc con người cảm giác,
nhìn nhận và xây dựng thế giới sống của bản thân như thế nào và phải chỉ dẫn cho
con người những phương pháp để làm được điều đó.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

DANH NHÂN TRIẾT HỌC
E. Husserl (1859 - 1938) - Nhà hiện tượng học
1. Cuộc đời và tác phẩm
Emund Gustav Albrecht Husserl (1859 - 1938) là triết gia người Đức gốc Do Thái,
người sáng lập hiện tượng học. Sinh ra ở một thị trấn nhỏ thuộc vùng Moravia của
đế quốc Áo - Hung, ngay từ nhỏ, Husserl đã say mê nghiên cứu toán học và khoa
học. Năm 1876, ông đến Trường Đại học Leipzip để học toán học và thiên văn
học. Sau ba học kỳ học ở đó, ông chuyển tới Đại học Berlin. Tại đây, ông có điều
kiện được học chung với bộ ba nhà toán học nổi tiếng lúc bấy giờ là Weierstraõ,
Kronecker và Kummer. Sau ba năm học ở Berlin, ông chuyển đến Vienne. Trong
suốt thời gian học tập và nghiên cứu ở đó, Husserl đã nhận được học vị tiến sĩ toán
học vào tháng 1 năm 1883. Sau đó, Husserl đã từng có thời gian trở lại Berlin và
làm trợ lý cho Weierstraõ, nhưng do Weierstraõ luôn ốm yếu, nên ông quyết định
quay về Vienne và tham gia phục vụ quân đội một năm. Đến năm 1884, mối quan
tâm lớn dành cho tôn giáo đã thôi thúc Husserl theo học triết học với Franz
Brentano ở Vienne. Brentano không chỉ là người truyền nguồn cảm hứng triết học
cho Husserl, mà còn là người có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiện tượng
học Husserl sau này. Husserl đã học tập với Brentano đến năm 1886, khi Brentano
khuyên ông đến Halle, nơi mà một trong những học trò của Brentano là Carl
Stumpf đang dạy triết học và tâm lý học. Năm 1887, Husserl trở thành giảng sư
của Halle và ở lại đó như một Privatdozent cho đến năm 1901, khi đã trở thành
phó giáo sư ở Gottingen và là giáo sư chính thức 5 năm sau đó. Từ năm 1916 đến
năm 1928, ông ở Freiburg và dạy học cho đến cuối đời.
Trong suốt thời gian học tập và làm việc với Brentano, Husserl đặc biệt bị lôi cuốn
bởi quan niệm về tính ý hướng của Brentano và đã phát triển nó thành hiện tượng
học. Nhờ đó, Husserl đã trở thành một trong những nhà triết học có ảnh hưởng lớn
ở thế kỷ XX và được coi là người đặt cơ sở cho hầu hết các học thuyết triết học
châu Âu đương đại, đã tiên đoán nhiều vấn đề, đưa ra nhiều quan niệm cho triết
học tâm thức (ý thức) cũng như khoa học nhận thức hiện thời. Mặc dù vậy, các tác
phẩm của Husserl không dễ đọc, người ta thường nói đến ông nhiều hơn là đọc các
tác phẩm của ông.
Về hiện tượng học, tác phẩm đầu tiên mà Husserl đã viết là Những nghiên cứu
lôgíc (1900 - 1901), tiếp sau là Những ý tưởng (ý niệm) (1913) - tác phẩm đầu tiên
trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống về hiện tượng học. Các tác phẩm ra đời
muộn hơn là Về hiện tượng học của sự ý thức về thời gian nội tại (1928); Lôgíc
hình thức và tiên nghiệm (1929) - tác phẩm chín muồi nhất của ông; Những suy
ngẫm về Descartes (1931); Sự khủng hoảng của các khoa học châu Âu. Kinh
nghiệm và phán đoán (1938) - tác phẩm được người giúp việc của Husserl là
Ludwig Landgrebe biên tập với sự tham khảo ý kiến của ông.
Ngoài ra, Husserl còn có các tác phẩm triết học quan trọng khác, chẳng hạn, Khái
niệm về số (tác phẩm được in vào năm 1887, nhưng sau đó không được xuất bản).
Đến tác phẩm này, ở Husserl đã có sự thay đổi hướng nghiên cứu; ông từ bỏ dự án
Triết học về số học với tư cách cơ sở toán học cho tâm lý học. Thay vào đó, ông
đã phát triển những nghiên cứu triết học lâu dài của mình là hiện tượng học (được
giới thiệu lần đầu trong Những nghiên cứu lôgíc gồm hai quyển, được viết vào
năm 1900 và 1901). Trong những năm 1095 - 1907, ông đã giới thiệu tư tưởng về
sự hoàn nguyên tiên nghiệm và hướng hiện tượng học đến chủ nghĩa duy tâm tiên
nghiệm. Quan điểm mới về hiện tượng học này đã được Husserl giải nghĩa trong
Những ý tưởng (1913) - tác phẩm trình bày có hệ thống nhất về hiện tượng học.
Ngày nay, những phần quan trọng trong các bài báo và những công trình nghiên
cứu đã được xuất bản trước đây của Huserl được in trong bộ Huserl toàn tập
(Husserliana). Những tác phẩm chính của ông cũng đã được dịch sang tiếng Anh.
2. Hiện tượng học
Trong quan niệm của Husserl, triết học cũng như các khoa học khác không phải là
những thứ xa vời với thực tiễn cuộc sống hay đánh mất ý nghĩa nhân sinh của con
người. Do vậy, ông chủ trương xây dựng một thứ triết học và phương pháp triết
học nhằm đưa con người trở về với bản chất chân thực trong nhận thức, trong hành
vi ý thức, trong việc hình thành thế giới sống của chính mình. Hiện tượng học
cùng các phương pháp hiện tượng học chính là con đường mà thông qua đó,
Husserl thực hiện mục đích của mình.
Hiện tượng học của Husserl bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi hành vi ý thức của
con người đều có một đối tượng để hướng tới. Ông lập luận như sau: “Khi chúng
ta yêu mến một ai đó hay một cái gì đó, thì rõ ràng là đã có một ai hay một cái
gì đó mà chúng ta yêu; tương tự, khi chúng ta cảm giác về một cái gì đó, thì rõ
ràng là đã có một cái gì đó mà chúng ta cảm giác; khi chúng ta nghĩ về một cái gì
đó, thì đã có một cái gì đó mà chúng ta nghĩ,...”(1). Từ đây, Husserl đặt câu hỏi:
Thực chất của đối tượng mà ý thức con người hướng tới là gì? Và, hành vi nhận
thức đối tượng của con người diễn ra như thế nào? Chính vì vậy, tính ý hướng đã
trở thành chủ đề trọng tâm trong hiện tượng học của Husserl. Tư tưởng về tính ý
hướng này được kế thừa từ Brentano, người đã cho rằng, tính ý hướng là nét đặc
biệt của kinh nghiệm nhằm ý thức về một cái gì đó. Do vậy, luận giải về hiện
tượng học của Husserl, trước hết cần tìm hiểu xem tính ý hướng là gì? Nó bao
gồm những gì?
Husserl hiểu tính ý hướng không chỉ đơn giản là sự định hướng của ý thức về phía
các sự vật tồn tại bên ngoài, mà còn có nghĩa là, ý thức “dựng” nên các sự vật.
Tính ý hướng bao gồm: hành vi ý hướng (Noesis), nội dung ý hướng (Noema) và
đối tượng mà ý thức của chúng ta hướng tới. Trong đó, theo Husserl, hành vi ý
hướng là hành động mà ở đó, chúng ta xác định nội dung ý hướng để tiến tới
“dựng” nên đối tượng (sự vật); nói cách khác, nó là ý nghĩa được tạo ra trong hành
động hướng tới một đối tượng; nội dung ý hướng là sự tổng hợp những đặc điểm
mà ý thức chúng ta có được về sự vật tại cùng một thời điểm trong hành động
hướng đến sự vật đó.
Khi thừa nhận tính ý hướng là ý thức “tạo dựng” nên các sự vật, Husserl đặt vấn
đề: Ý thức của con người hướng tới một đối tượng xác định, nhưng tại sao có
những đối tượng giống nhau mà ý nghĩa của nó đối với mỗi người lại khác nhau.
Đôi khi, ý nghĩa đến với mỗi người là giống nhau, nhưng đối tượng biểu đạt ý
nghĩa đó lại khác nhau. Husserl lý giải hiện tượng này là do hành vi ý hướng trong
ý thức của con người tạo ra đối tượng, chứ không phải đối tượng bên ngoài quy
định ý thức của con người về bản thân đối tượng đó. Theo ông, những ý đồ hay ý
tưởng được định hình trong đầu óc con người đều hư
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status