Các khái niệm về ngôn ngữ - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Các khái niệm về ngôn ngữ



MỤC LỤC
 
1. Thế giới quan riêng, cái thể hiện qua ngôn ngữ hệ cấu trúc (Structualism) của cộng đồng bản ngữ 2
2. Phản ánh của thế giới quan người Việt văn hoá trong phát âm và thơ ca 3
3. Đặc trưng và sự thể hiện cách nhìn thế giới của cộng đồng bản ngữ qua ý nghĩa của từ 4
4. Đặc trưng thế giới quan Việt Nam trong phạm trù hoá hiện thực và bức tranh ngôn ngữ về thế giới 4
5. Đặc trưng thế giới quan của cộng đồng bản ngữ trong sự chuyển nghĩa và biểu trưng 5
6. Đặc trưng thế giới quan của cộng đồng bản ngữ qua định danh ngôn ngữ 6
7. Đặc trưng thế giới quan cộng đồng bản ngữ của tư duy ngôn ngữ trong sự tri giác, phạm trù hoá hiện thực, qua hiện tượng từ đồng nghĩa 7
8. Phản ánh thế giới quan cộng đồng bản ngữ của tư duy ngôn ngữ 8
9. Đặc điểm văn hoá của thế giới quan cộng đồng bản ngữ của định danh động vật trong ngôn ngữ 9
10. Các điểm khác của ngôn ngữ phản ánh thế giới quan cộng đồng 9
11. Các đặc điểm thể hiện thế giới quan cộng đồng trong định danh thực vật trong ngôn ngữ 10
Kết luận 11
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Các khái niệm về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của loài người, phương tiện tư duy và công cụ giao tiếp xã hội.
Ngôn ngữ bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là công cụ quan trọng nhất của sự trao đổi văn hoá giữa các dân tộc.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của xã hội, và là công cụ tư duy của con người, Ngôn ngữ học có khía cạnh tâm lý học, ngôn ngữ có vai trò nhiều nhân tố: xã hội, tâm lý, dân tộc...
Ngôn ngữ học tâm lý nghiên cứu những mối quan hệ qua lại giữa nhân cách với cấu trúc chức năng của hd ngôn ngữ. Về một khía cạnh khá giữa nhân cách với ngôn ngữ như yếu tố cấu thành hình thành thế giới của con người.
Qua nghiên cứu ngôn ngữ tâm lý học sẽ thấy được đặc điểm tâm lý của một cộng đồng bản ngữ, và qua đó sẽ thấy được “trong ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ tự nhiên đều hàm chứa một cách nhìn thế giới của mỗi cộng đồng bản ngữ đó đối với sự vật hiện tượng xung quanh họ”.
Ngôn ngữ tâm lý học phát hiện ra những đặc điểm và bản sắc tâm lý, bức tranh thế giới quan của một cộng đồng bbm cả “thế giới nội quan” hay thế giới bên ngoài.
“Ngôn ngữ là linh hồn của dân tộc”, qua ngôn ngữ mỗi cộng đồng bản ngữ thể hiện được thế giới quan tâm linh của mình, đồng thời thế giới quan tâm linh cũng làm ngôn ngữ phát triển, kho tàng kinh sách là một ví dụ điển hình về điều này.
Thế giới quan tâm linh của người dân tộc thiểu số thể hiện qua ngữ nghĩa ngôn ngữ của họ, thí dụ: thế giới quan tâm linh người Thái có: thế giới thần linh, trong đó có tự nhiên thần và nhân thần, nhân thần là tổ tiên, hay cộng đồng người tài giỏi có phép (được thờ cúng), thể hiện qua lễ cúng ma, cúng mà nhà, ma cửa, ma nương... với các bài cúng ma, các câu cầu khấn, các lễ và văn tấu của người Thái.
Thế giới quan tâm linh châu Âu không có tục thờ cúng tổ tiên, trong đạo thiên chúa chỉ có cầu chúa mà khong cầu cúng ông bà tổ tiên, kinh sách giảng đạo nhiều, các bài ca lễ trong nhà thờ, trong tiếng Anh có từ Christ (chúa trời), hay các thánh (Saint), hay ma quỷ (ghost, monster...) mà không có các từ “tổ tiên ông bà linh thiêng”, thiên binh, thiên tướng, bồ tát, diêm vương...
Văn hoá lễ hội phản ánh trong ngôn ngữ:
Phần lễ bao gồm các nghi thức tế tự, bùa chú, các bài khấn, kinh sách, vật thiêng, không gian thiêng (chùa, nhà thờ, đền...), thầy cúng, ông đồng bà cốt...
- Thí dụ: “Số cô chẳng giàu thì nghèo, ngày 30 tết có thịt treo trong nhà...”.
Phần Hội: đình, lễ hội, cưới xin, hội làng, đám rước, cỗ bàn.
“Miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, “người ơi người ở đừng về, người về em nhớ... í a...”
Thế giới quan tâm linh của người Bana Tây Nguyên là “sống gửi thácvề”, người đã chế cũng có cuộc sống, cần đồ vật, sinh hoạt cõi âm, nên họ có nhà mả, lễ mở cửa mả, lễ đâm trâu và hết tang, tiễn người chết về với tổ tiên, do đó họ có ngôn ngữ cả hát cúng tế trong lễ này, và ác ngôn ngữ hình thể: ăn mặc kỳ dị, nhảy múa...
1. Thế giới quan riêng, cái thể hiện qua ngôn ngữ hệ cấu trúc (Structualism) của cộng đồng bản ngữ
Hầu hết các ngôn ngữ khi phân tích cấu trúc đều có 3 thành phần chính: S - V - Q - chủ ngữ động từ và vị ngữ, thí dụ tui - lên - gác, I go upstair gồm 3 thành phần tạo câu.
Cái tôi, cái bản sắc, cái chính luôn có mặt, là hạt nhân chính của câu “nguyên tử luận”, về mặt Ngôn ngữ tâm lý học nó “nhấn mạnh mặt cá nhân trong hành vi ngôn ngữ của con người”.
Cấu trúc từ mang tính âm dương, nó được “ý niệm hoá”, “phạm trù hoá” một cách đối xứng: trên > < đát.
Thế giới quan được phạm trù hoá, sinh vật (cái, con) --> cái (bàn, hồ, cây) và con (người, vật).
Ngôn ngữ là tấm gương phản ánh văn hoá của mỗi dân tộc, các dân tộc thiểu số của Việt Nam có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình trong sh cộng đồng của họ, đồng thời họ cũng sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên toàn quốc, đồng thời được cung cấp giáo dục, y tế, giải trí, thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng chữ Quốc ngữ. Sự giao thoa văn hoá ngôn ngữ này làm phong phú thêm cho nền văn hoá của người thiểu số, đồng thời cũng làm thay đổi cuộc sống, kinh tế và vị thế của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt anh em.
Có thể nói rằng “cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự là một cộng đồng song ngữ” - tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt của người Kinh.
Bản sắc thế giới quan của cộng đồng dân tộc thiểu số vừa mang nét đặc thù của nền văn hoá của dân tộc họ, đồng thời mang nét chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Nền văn hoá của các dân tộc thiểu số được phổ biến và giới thiệu ra các dân tộc khác, mang lại tự hào và đa dạng bản sắc văn hoá cho cộng đồng các dân tộc Việt Nam: đàn - T-rưng, đàn nước, múa chăm, trang phục Thái trắng, kèn lá.
2. Phản ánh của thế giới quan người Việt văn hoá trong phát âm và thơ ca
“Các nghiên cứu ngôn ngữ học khác nghiên cứu ngôn ngữ như một chủ đề có sẵn, Ngôn ngữ tâm lý học nghiên cứu quá trình tạo sinh ra ngôn ngữ đó”.
Thế giới quan qua ngôn ngữ Việt cũng có phần đóng góp của các văn hoá dân tộc thiểu số, thí dụ: trong ngôn ngữ Việt là ngôn ngữ thanh điệu, các tù binh Chăm sau khi được cấp đất đã nói tiếng Việt “trại đi” vì tiếng Chăm là ngôn ngữ không có thanh điệu, tạo thành những vùng ốc đảo thổ ngữ Việt lẫn lộn hệ thanh điệu xung quanh Nà Nội.
Một ví dụ khác là một khảo sát về dân ca quan họ cho thấy các làng quan họ gốc đều có quan hệ với người Chăm đã bị Việt hoá, dễ thấy âm nhạc của người Việt chỉ có ngũ cung, trong khi quan họ lại có cả bán âm. Các sắc thái văn hoá mà người Chăm đóng góp cho nền văn hoá ngôn ngữ Việt:Các điệu lý (Lý hoài Nam, Lý con sáo, Lý ta lý, Lý ngựa ô, Lý thiên thai), những điệu hò: (Hò mái đẩy, hò huế, hò bài chòi), (GS. Phạm Đức Dương).
Khi nghiên cứu quan trọngr tạo sinh phát âm, bao gồm ba cấp độ: 1- Có lý do, có mục đích, có động cơ. 2- Lựa chọn từ ngữ. 3- Phát âm, hiện thực hoá lời nói.
Quan trọngr có âm (anticulation) chuyển từ tư duy thành âm nói, là quan trọngr tri giác, chuyển từ nghĩa đến âm từ (âm/chữ), mang tiêu chí nghĩa.
3. Đặc trưng và sự thể hiện cách nhìn thế giới của cộng đồng bản ngữ qua ý nghĩa của từ
Ý nghĩa của từ là kết quả phán ánh hiện thực một cách đặc biệt thông qua ý thức của con người.
Thông qua ý nghĩa của mình, từ thể hiện quan trọngr phản ánh trực tiếp, cảm giác về thế giới.
Nét biểu hiện rõ nhất của đặc trưng thế giới quan của cộng đồng ngôn ngữ qua ngôn ngữ là “ý nghĩa biểu trưng”.
Ví dụ: 1. Người Nhật dùng lá dương sỉ để biểu trưng cho sự mong mjốn thành đạt, lá quýt biểu thị mong muốn lời nói người khác hóm hỉnh, ý nhị, lá thông xanh biểu thị trường thọ.
2. Người Việt Nam lại cho rằng: Hoa huệ cho tang lễ, lá dương sỉ biểu hiện quyền lực, hoa lan biểu hiện cho sự th...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status