Tình bằng hữu - pdf 16

Download miễn phí Tiểu luận Tình bằng hữu



Tề Khương nói hết sức nghiêm chỉnh và chính đáng.
- Nhân dân nước Tấn của chàng đang mong mỏi trông đợi chàng về làm chúa. Có lẽ nào vùa người cũng không muốn làm ? Mối thù của anh em cũng không muốn báo? Không quan tâm chút nào đến nỗi thống khổ của muôn dân, đến lợi ích của đất nước ?
Trùng Nhĩ nổi giận nói :
- Thôi đủ rồi, đủ rồi, hãy im đi ! Ta đã chán nghe những lời lẽ đó, chán cả cảnh sống lưu vọng đây đó, đây chính là nhà ta, bất kỳ thế nào ta cũng không đi khỏi đây.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

MỞ BÀI
Ngũ luân là khái niệm được đề cập đến trong tư tưởng Nho gia. Ngũ luân là 5 mối quan hệ chính trong xã hội phong kiến do Đổng Trọng Thư sáng lập nên bao gồm :
Quần - thần : Vua - tôi
Phụ - Tử : Cha - con
Phu - Phụ : Vợ - chồng
Huynh - Đệ : Anh - em
Bằng - Hữu : Bạn bè.
Xã hội phong kiến là một xã hội khép kín, và con người vị ràng buộc chặt chẽ trong các mối quan hệ này và tồn tại rất ít các mối quan hệ khác ngoài năm mối quan hệ này. Mặc dù trong mỗi mối quan hệ trên có sự quy định bổn phận và trách nhiệm chặt chẽ gây cho con người một tình trạng ngột ngạt, thiếu sáng tạo nhưng về phương diện đạo đức chúng mang một ý nghĩa to lớn và trở thành nền tảng đạo đức cho nhiều dân tộc ở Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn quốc và Việt Nam.
Do giới hạn của vấn đề tương đối rộng, ở đây, em chỉ xin trình bày những hiểu biết của mình thông qua các tác phẩm văn học dân gian và hiện đại kinh điển, các câu ca dạo tục ngữ, các bài hơ cổ điển, hiện đại để làm sáng tỏ một giá trị nhân văn trong mối quan hệ thứ năm là tình bằng hữu.
Với các dân tộc phương Đông nói chung, với người Việt Nam nói riêng tình bằng hữu là tình cảm được trân tọng, gìn giữ, trở thành một truyền thống tốt đẹp cấn thiết được bảo lưu qua thời gian. Người Việt Nam ngay từ xa xưa đã có những câu ca dao tục ngữ về vấn đề này.
“Một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”.
hay “Học thầy không tày học bạn”.
Trong đối xử với bạn bè, người Trung Quốc lại chú trọng đến hai đức quan trọng nhất là tín và nghĩa “Tín” được hiểu là niềm tin, là sự thành thực với nhau. Một lời hứa với bạn bè phải được xem như “Nhất ngôn cửu đỉnh - Tứ mã nan truy” (nghĩa là “một lời nặng tựa 9 cái đỉnh nghìn cân - bốn con ngựa cũng khó lòng theo kịp”).
Trong sách cổ Học Tinh Hoa do Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và Tử An, Trần Lê Nhân biên soạn có rất nhiều câu truyện về chữ “tín” của ngưởi Trung Quốc.
Cái đỉnh
Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quý. Nước Tề bắt phải đem dâng Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.
Vua Tề bảo “Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang, thì ta mới tin”.
Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến, bảo đi.
Nhạc Chính Tử hỏi “Sao không đưa cái đỉnh thật ?”
Vua Lỗ nói “Ta quý cái đỉnh ấy lắm”.
Nhạc Chính Tử thưa : “Nhà vua quý cái đỉnh ấy thế nào, thì tui quí cái đức “tín” của tui như thế”.
Sau vua Lỗ phải đưa cái đỉnh thật. Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
[Hàn Từ]
Thanh gươm
Quý Trát là con vùa Ngô đi du lịch các nước, khi qua nước Từ, vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy quý Trát có thanh gươm báu, muốn xin, mà chưa dám nói. Quý Trát trong bụngcũng định cho, mà chưa dâng được, vì cuộc du lịch chưa xong. Khi ở nước Tấn về , thì vua Từ đã mất rồi. Quí Trát không biết làm thế nào, đành phải đem thanh gươm đến treo chỗ gốc cây bên mộ vua Từ, rồi mới về.
Sử ký .
Quý Trát và vua Từ qua quá trình gặp gỡ có thể nói là đã trở thành một đôi bạn, dù không nói nhưng hai người như đã có giao ước ngầm về chuyện thanh kiếm. Thế mà Quý Trát vẫn giữ nguyên lời “giao ước ngầm” ấy thì thực là người có đức “tín” tột đỉnh. Mặc dù hành động của Quý Trát ở một phương diện nào đó có phần cực đoan khi ông treo kiếm trên mộ bạn nhưng ý nghĩa của câu chuyện về đức “tín” cho thấy vô cùng thấu đáo. Nếu như trong cuộc đời bạn bè đối đáp với nhau ai cũng có được đức tính như vậy thì trên thế gian này liệu có còn việc gì không thể làm được. Gặp việc khó khăn gian khổ, mà người bạn đã nhận lời giúp mà làm việc hết sức đến cùng thì công việc sớm muộn cũng được “xuôi chèo mát mái”, “thuận buồm xuôi gió”.
Câu chuyện về “cái đỉnh” lại cho ta hiểu sâu hơn cái ý nghĩa của chữ “Tín”. Nhạc Chính tử quý trọng đức “Tín” của mình hơn cả tính mạng, ông dám chống lệnh vua mang cái đỉnh thật đi sứ. Điều này cho thấy chữ “Tín” thật đáng quý biết bao. Ai có nó thì sẽ được bạn bè tin cậy, quý mến và kính trọng. Thậm chí đức Khổng Tử có nói “Nhân vô tín bất lập” nghĩa là con người ta sinh ra trong cõi đời này không có đức tín thì không đứng được ở đời.
Còn vị vua Tấn Văn Công (vị vua đã từng làm bá chủ chư hầu thời Chiến Quốc) cũng đã thốt lên rằng : “Tín vi quốc chi bảo” nghĩa là “Tín” là vật báu của cả nước.
Nếu như chữ “Tín” là khái niệm quen thuộc với người Việt Nam thì chữ “Nghĩa” lại có phần xa lạ hơn. Người Việt Nam đôi khi hiểu đồng nhất hai khái niệm “Nghĩa” và “Tình” thực ra hai khái niệm này có sự khác nhau. “Tình” là những rung động của bàn thân được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên bền vững khi tiếp xúc với những đối tượng có liên quan đến nhu cầu hay động cơ của mình. Còn Nghĩa chính là tình cảm nhưng nhấn mạnh ở ý nghĩa thuỷ chung, gắn bó trước sau như một không bao giờ thay đổi, “Nghĩa” là cái tồn tại còn bền vững hơn cả tình “Nghĩa” mới chính là thước đo tình cảm, thước đo đạo đức đích thực của một con người. Người nào có đạo đức đích thự thì mới có nghĩa, còn những kẻ đạo đức giả chuyên nói một đằng làm một nẻo thì chẳng thể nào có “Nghĩa” được. Nghĩa là sợi dây vô hình níu kéo con người đi trên con đường vươn tới cái chân - thiện - mỹ. Nhiều khi quan hệ giữa bạn bè với nhau do xích mích, to tiếng dẫn đến mất ít nhiều tình cảm nhưng trong lúc bạn bè nguy cấp, nhiều người dám hy sinh cả tính mạng vì nghĩa bạn bè bất chấp khó khăn gian khổ.
Biết rõ chữ Nghĩa
Hoa Hâm chạy loạn, cùng đi với bọn sáu bảy người. Giữa đường gặp một người cũng chạy loạn, đến kêu nài, xin nhập bọn. Chúng lấy làm ái ngại, thuận cho. Một mình Hoa Hâm nói :
“Không nên, đang bước nguy hiểm, sinh, tử, hoạ phúc có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây giờ vô cố, nhận một người lạ, lỡ khi xảy ra việc gì, thì ta có bỏ được người ta không?”.
Chúng bất nhận cố nói với Hoa Hàm cho người kia cùng đi, Hoa Hâm bằng lòng.
Người kia đi được một quãng đường, chẳng may sa chân ngã xuống giếng. Cả bọn muốn bỏ mặc để đi cho rảnh thân. Một mình Hoa Hâm nói :
“Không nên, người ta cùng đi với mình là người bạn mình. Người ta gặp sự chẳng may như vậy mà mình bỏ người ta sao cho đành!”.
Nói rồi bảo bấy nhiêu người cùng ở lại vớt người kia lên. Sau cứu mãi không được, Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu tất rồi mới đi.
Hoa Hâm là người hiểu biết chữ “Nghĩa” rất chính xác vì thế mà ông không dễ dàng kết bạn. Bởi vì đã là bạn bè thì phải sống cho ra nghĩa bạn bè, cùng nhau, giúp đỡ, tương trợ nhau vượt qua khó khăn hoạn nạn; gặp lúc nguy nan không thể bỏ mặc nhau được. Nghĩa bạn bè là thứ cao quý nên càng không thể dễ cho, nhận được. Vì chữ “Nghĩa” ấy mà Hoa Hâm sẵn sàng vượt qua những trở ngại khác cứu giúp và an táng cho người bạn mới quen.
Chữ nghĩa trong tình bằng hữu nhiều khi còn gắn với cả tinh thần quốc gia dân tộc như trong câu chuyện dưới đây :
Vì nghĩa công, quên thù riêng
Đời nhà Đườ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status