Tài nguyên nước mặt lưu vực sông Gianh - pdf 17

Download miễn phí Tài nguyên nước mặt lưu vực sông Gianh



Biểu đồ phân phối mưa năm theo tháng tại các trạm trong phạm vi lưu vực sông Gianh
(hình 4) đều có dạng hai đỉnh (2 cực đại, 2 cực tiểu). Cực đại chính xuất hiện vào tháng X, cực
tiểu chính xuất hiện vào tháng II hay III. Cực đại phụ do mưa tiểu mãn gây ra xuất hiện vào
tháng V kéo theo cực tiểu phụ xuất hiện vào tháng VI hay VII. Mặc dù lượng không lớn
nhưng sự xuất hiện của mưa tiểu mãn cũng góp phần làm giảm bớt tình trạng căng thẳng về nước đối với sản xuất nông nghiệp trong mùa khô.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-1758
166
Tài nguyên nước mặt lưu vực sông Gianh
Nguyễn Thị Nga*, Nguyễn Phương Nhung
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 29 tháng 4 năm 2011
Tóm tắt. Sông Gianh có tổng diện tích lưu vực 4680 km2, chảy qua và cung cấp nước cho các
huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch (1 phần) của tỉnh Quảng Bình và 1 phần
huyện Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh. Bởi vậy, nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước lưu vực sông
Gianh là vấn đề cần thiết và có nghĩa thực tiễn. Tuy nhiên, do rất thiếu số liệu thực đo dòng chảy
nên tài nguyên nước lưu vực sông Gianh trước đây chưa được nghiên cứu đầy đủ. Bài báo này
công bố kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt lưu vực sông Gianh dựa trên cơ sở dữ liệu bao gồm
các số liệu đo mưa tại các trạm trong và lân cận lưu vực tính đến năm 2008, chuỗi số liệu dòng
chảy thực đo 21 năm (1961-1981) duy nhất tại trạm Đồng Tâm trên sông Rào Nậy và chuỗi số liệu
dòng chảy khôi phục được nhờ ứng dụng mô hình MIKE-NAM tại các vị trí cần thiết trên các sông
thuộc lưu vực. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: Lượng mưa hàng năm trên lưu vực sông Gianh
thuộc loại phong phú. Chính vì vậy lượng dòng chảy hàng năm trên các sông suối cũng thuộc loại
dồi dào. Tuy nhiên, do dòng chảy phân phối không đều theo cả không gian và thời gian nên việc
sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Gianh gặp phải những khó khăn không nhỏ.
1. Điều kiện địa lí tự nhiên [1, 2] 
Lưu vực sông Gianh nằm trong phạm vi từ
vĩ tuyến 17o23’ đến 18o07’ vĩ bắc và từ kinh
tuyến 105o37’ đến 106030’ kinh đông, phía bắc
giáp lưu vực sông Rào Cái và Ngàn Sâu với
đường phân nước là dãy Hoành Sơn và dãy
Động Chùa-Mốc Lèn, phía tây giáp Lào với
đường phân nước là đỉnh của dãy Trường Sơn,
phía nam giáp lưu vực sông Kiến Giang và phía
đông giáp biển Đông (hình 1). Do địa hình
cacxtơ phát triển nên đường phân nước phía tây
nam và nam của lưu vực không xác định được
rõ ràng.
_______

Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943
E-mail: [email protected]
Lưu vực sông Gianh có độ cao bình quân
360 m, độ dốc trung bình 19,2%. Địa hình đồi
núi chiếm hầu hết diện tích lưu vực, địa hình
đồng bằng rất hẹp, giáp biển là các cồn cát di
động ảnh hưởng lớn đến việc thoát nước của
cửa sông. Hướng chủ yếu của các dãy núi trên
lưu vực là tây bắc-đông nam, riêng dãy Hoành
Sơn ở phía bắc có hướng tây-đông.
Nham thạch phân bố trong lưu vực chủ yếu
là đá vôi và đá trầm tích, rải rác có đá granit. Đá
vôi phân bố ở phía nam, chiếm khoảng 25-30%
diện tích lưu vực 1160 km2) và là vùng hoang
vắng vì không có nước mặt nhưng có nhiều
hang động ngầm (lớn nhất là động Phong Nha:
dài 1500 m, rộng 8-35 m, cao 40 m).
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 167
Đất trên lưu vực sông Gianh được tạo thành
do nhiều nguồn gốc, chủ yếu là đất phù sa bị
nhiễm mặn hàng năm, ít màu mỡ và đất thềm
dốc cao cấu tạo bởi sản phẩm phong hóa bở rời
của các đá Feratic, sét, sa diệp thạch.
Rừng trong lưu vực còn nhiều, chiếm
khoảng 55% diện tích lưu vực.
Khí hậu lưu vực sông Gianh mang những
đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa
của miền Trung Trung bộ nhưng có nhiều nét
riêng biệt. Nhiệt độ bình quân tháng cao
(19-30
o), tăng dần từ tây sang đông và từ bắc
xuống nam. Lượng bốc hơi năm dao động trong
khoảng 800-1200 mm, có xu thế tăng dần về
phía đông. Lượng mưa hàng năm trên lưu vực
sông Gianh thuộc loại phong phú, trung bình
khoảng 2400 mm. Mùa mưa muộn và ngắn hơn
so với các tỉnh miền Bắc, bắt đầu từ tháng VIII
hay IX và kết thúc vào tháng X, chiếm 60-70%
tổng lượng mưa năm. Đây là vùng có nhiều
ngày mưa trên 100 mm (chỉ sau Bắc Quang).
Dòng chính sông Gianh dài 160 km, bắt
nguồn từ núi Phu-cô-pi thuộc dãy Trường Sơn,
chảy theo hướng đông bắc-tây nam và đổ ra
biển Đông tại cửa Gianh. Lưu vực sông Gianh
có dạng gần tròn, hệ số phát triển chiều dài
đường phân nước là 1,55.
Do có địa hình đá vôi nên mật độ lưới sông
dao động trong phạm vi lớn, từ dưới 0,6
km/km
2
(vùng núi đá vôi) đến trên 1,5 km/km2
(vùng núi Phu-cô-pi và vùng núi phía bắc lưu
vực), trung bình 1,04 km/km2.
Hình 1. Bản đồ mạng lưới sông và các trạm khí tượng thủy văn lưu vực sông Gianh.
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 168
Sông Gianh có 13 sông nhánh cấp I, (8 ở bờ
trái và 5 ở bờ phải. Hai nhánh cấp I lớn nhất là
sông Trôi và Rào Trổ. Sông Trôi dài 84 km, có
diện tích lưu vực 2390 km2 (trong đó xấp xỉ
50% là đá vôi), bắt nguồn từ độ cao 1350 m của
núi Cô-Ta-Ram, đổ vào sông Gianh ở bờ phải
tại Vạn Phúc, cách cửa Gianh 6 km. Sông Rào
Trổ, dài 68,5 km, có diện tích lưu vực 556 km2,
bắt nguồn từ Đông-Hồ-Nhanh có độ cao 375 m,
chảy qua vùng đồi núi thấp và đổ vào sông
Gianh từ bờ trái tại Cổ-Cẳng cách cửa Gianh 38
km.
Mạng lưới sông và các trạm khí tượng thủy
văn trong và lân cận lưu vực như hình 1.
2. Tài nguyên nước mưa
2.1. Chuẩn mưa năm và dao động của mưa năm
trong thời kỳ nhiều năm
Bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm (hình 2)
được xây dựng dựa trên các giá trị chuẩn mưa
năm tính toán cho 10 trạm đo mưa trong và lân
cận lưu vực sông Gianh. Trong số 10 trạm này,
7 trạm (Đồng Tâm, Mai Hóa, Ba Đồn, Tân Mỹ,
Kỳ Anh, Hương Khê, Đồng Hới) có tài liệu
mưa năm dài và liên tục còn 3 trạm (Tuyên
Hóa, Minh Hóa, Trường Sơn) có chuỗi số liệu
mưa năm tương đối dài nhưng không liên tục.
Chuẩn mưa năm tại 7 trạm có tài liệu dài và liên
tục được tính bằng trị trung bình của thời kỳ
tính toán đại biểu lựa chọn căn cứ vào đường
cong lũy tích sai chuẩn mưa năm vẽ cho từng
trạm (số liệu từ năm bắt đầu quan trắc đến năm
2008). Chuẩn mưa năm của 3 trạm còn lại được
tính từ chuẩn mưa năm của trạm tương tự dựa
theo phương trình hồi quy của quan hệ tương
quan giữa từng cặp trạm (tính toán và tương tự).
Phân tích bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm
lưu vực sông Gianh có thể thấy:
- Lượng mưa hàng năm trên lưu vực sông
Gianh khá lớn, tính trung bình trên toàn lưu vực
đạt cỡ 2400 mm.
- Lượng mưa năm phân bố không đều trong
phạm vi lưu vực, có xu thế tăng theo độ cao địa
hình từ 1800 mm đến 2800 mm. Vùng trung và
hạ lưu lưu vực mưa ít nhất (1800-2000mm),
vùng bắc lưu vực mưa nhiều nhất (2600-2800
mm).
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 169
Hình 2. Bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm lưu vực sông Gianh.
Kết quả tính hệ số biến đổi mưa năm trong
thời kỳ nhiều năm và phân tích các đường cong
lũy tích sai chuẩn mưa năm tại các trạm đo mưa
trong phạm vi lưu vực sông Gianh cho thấy:
- Mức độ dao động của mưa năm trong thời
kỳ nhiều năm trên lưu vực sông Gianh thuộc
loại trung bình. Hệ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status