Khai thác mô hình WetSpa phục vụ dự báo lũ các lưu vực sông quốc tế: Tính bất định số liệu, tham số, cấu trúc mô hình và đề xuất các giải pháp - pdf 17

Download miễn phí Khai thác mô hình WetSpa phục vụ dự báo lũ các lưu vực sông quốc tế: Tính bất định số liệu, tham số, cấu trúc mô hình và đề xuất các giải pháp



TừDEM, hướng dòngchảy và tích tụdòng chảy được tính toán dựa vào độcao địa hình.
Tính toán bán kính thủy lực cho từng ô lưới sử dụng mối quan hệtheo hàm sốmũvới hằng số
mạng lưới a = 0,07 và hệsốmũtỉlệhình học b = 0,47 tương đương với tần suất lũ2 năm.Hai
mươi bảy tiểu lưu vực được giới hạn từbiên giới đến trạm Dừa. Cáctham sốtạo ra từ
ArcView dựa trênbản đồthổnhưỡnggồm có độdẫn thủy lực, độrỗng,khảnăngtrữ, lượng
ẩm dư, chỉsốphân bốkích cỡ độrỗng của đất và giai đoạn héo của thực vật



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ặc
các biến X, Z, … trong khoảng thời gian T ngay
trước đó. Một mô hình mô phỏng thủy văn có
thể hoạt động ở “chế độ dự báo” nếu các giá trị
của các biến độc lập X, Z, ... ở thời gian dự kiến
∆T có được từ các dự báo độc lập. Như vậy mô
hình mô phỏng, bằng cách mô phỏng chuỗi giá
trị của biến phụ thuộc {Y}
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943.
E-mail: [email protected]
T sẽ thực sự đưa ra
các giá trị dự báo [2].
Trên thế giới các mô hình thủy văn được
phát triển rất nhanh chóng cả về chủng loại và
số lượng. Có thể kể đến một số mô hình thủy
văn như: đường đơn vị, SSARR, TANK,
TOPMODEL, MIKE SHE. Việc xây dựng các
mô hình thủy văn phân phối kết hợp với công
nghệ GIS là một hướng mới đang được khai
thác cho phép các nhà thủy văn phân tích ảnh
hưởng của sự biến đổi các yếu tố khí tượng, địa
hình, địa chất, mặt đệm theo không gian và thời
gian lên các yếu tố thủy văn. Các mô hình này
có thể kết hợp với dữ liệu mưa từ các nguồn
N.T. Giang, N.T. Thủy / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 35‐45 36
như rađa, mô hình dự báo mưa, từ trạm mưa
thực đo để dự báo dòng chảy lũ. Một vài mô
hình loại này đã được áp dụng trong nghiệp vụ
dự báo ở Việt Nam và cho kết quả bước đầu
khả quan [3].
Tuy nhiên để các mô hình thủy văn có thể
áp dụng trong dự báo nghiệp vụ cần mất
nhiều công sức tìm được bộ tham số của mô
hình, đặc biệt với các mô hình thủy văn phân
phối. Hơn nữa, do thiếu sự hiểu biết về lưu vực
nghiên cứu và số liệu thực đo nên dẫn đến các
trường hợp có nhiều bộ tham số trong mô hình
hay nhiều mô hình cùng đưa ra kết dự báo có
chất lượng như nhau [4,5]. Để chọn được một
mô hình cùng bộ thông số có thể dùng trong dự
báo tác nghiệp cho một trường hợp cụ thể, các
thành phần sau đây cần được xác định, đo đạc
và ước lượng [6]: (1) Mô hình: cấu trúc, các
tham số, các biến trạng thái, điều kiện ban đầu
và điều kiện biên, và (2) Dữ liệu: giá trị đo đạc
các biến vào và ra mô hình. Tất cả các thành
phần trên đều chứa đựng tính bất định làm ảnh
hưởng đến giá trị dự báo. Vì vậy, đánh giá độ bất
định cấu trúc, tham số và số liệu đầu vào của mô
hình dự báo đóng vai trò rất quan trọng [6,7].
Đồng thời, vai trò của việc lượng hoá các loại bất
định trong dự báo, đặc biệt là dự báo lũ ở nước ta
hiện nay chưa được xem xét và đánh giá đúng.
Việt Nam có 2360 sông với chiều dài lớn hơn
10 km, trong đó một số con sông lớn bắt nguồn
ngoài lãnh thổ nước ta như sông Hồng, Mã, Cả,
Đồng Nai, Cửu Long. Tất cả các con sông này
đều chảy qua các vùng kinh tế xã hội trọng điểm
mà ở đó nhu cầu dự báo và quản lý lũ lụt có tầm
quan trọng đặc biệt lớn. Tuy nhiên, các nhà thủy
văn lại thường gặp phải vấn đề thiếu số liệu ở
phần lưu vực thuộc nước bạn. Đặc biệt với các
mô hình thủy văn phân phối, số liệu mưa, bốc hơi,
giá trị các tham số, điều kiện ban đầu là các dữ
liệu cần thiết cho công tác dự báo lại hết sức
thiếu. Điều này làm tăng thêm tính tất định về mô
hình và dự liệu đề cập ở trên.
Từ những nhận định trên, bài báo này đi sâu
vào phân tích và thảo luận về sự ảnh hưởng của
bất định tham số, số liệu đầu vào và cấu trúc mô
hình tới kết quả dự báo dòng chảy lũ. Mô hình
thuỷ văn phân phối WetSpa [8,9] được giới thiệu
và áp dụng chạy thử nghiệm cho phần thượng lưu
của lưu vực sông Cả (một lưu vực sông quốc tế)
nhằm làm ví dụ minh hoạ. Một số hướng nghiên
cứu nhằm khắc phục sự thiếu hụt số liệu và giảm
độ bất định dự báo được đề xuất.
2. Cơ sở lý thuyết mô hình WetSpa
WetSpa (Water and Energy Transfer
between Soil, Plant and Atmosphere) là một mô
hình thủy văn phân phối mô tả quy luật vận
động của nước trong tự nhiên dùng cho dự báo
trao đổi nước và nhiệt giữa đất, thảm phủ thực
vật, khí quyển trong phạm vi một vùng, một lưu
vực. Mô hình được Wang và nhóm cộng sự
phát triển đầu tiên năm 1996 [10]. Quá trình
thủy văn được xem xét và mô hình hoá trong
các tầng khí quyển, lớp tán lá của thảm phủ, đới
rễ cây, tầng chuyển tiếp và tầng bão hoà.
Mưa rơi từ khí quyển trước khi xuống mặt
đất bị giữ lại bởi lượng ngưng tụ trên lá cây.
Phần mưa còn lại rơi xuống mặt đất được chia
thành hai phần phụ thuộc vào thảm phủ, loại
đất, độ dốc, cường độ mưa và độ ẩm kì trước
của đất. Thành phần đầu tiên làm đầy các vùng
trũng trên mặt đất và đồng thời chảy tràn trên
mặt đất trong khi phần còn lại ngấm vào đất.
Phần mưa ngấm đó có thể giữ lại ở đới rễ cây,
chảy sát mặt hay thấm sâu hơn xuống tầng nước
ngầm, chúng phụ thuộc vào độ ẩm của đất.
Nước tích tụ từ một ô lưới bất kì chảy sát mặt
phụ thuộc vào lượng trữ nước ngầm và hệ số
triết giảm. Thấm từ lớp đất được giả định cung
cấp cho lượng nước ngầm. Chảy sát mặt trong
đới rễ cây được giả định đóng góp vào dòng
chảy tràn và diễn toán ra cửa ra của lưu vực
cùng với dòng chảy tràn. Tổng lượng dòng chảy
ra từ mỗi ô lưới là tổng lượng dòng chảy tràn,
sát mặt và dòng ngầm. Bốc thoát hơi diễn ra từ
thực vật qua hệ thống rễ cây ở trong lớp đất và
một phần nhỏ từ lượng nước ngầm. Cân bằng
nước đối với lượng ngưng tụ gồm có mưa, bốc
hơi và dòng chảy. Cân bằng nước cho các vùng
N.T. Giang, N.T. Thủy / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự Nhiên và Công nghệ 25, Số 1S (2009) 35‐45 37
trũng gồm có lượng mưa rơi, thấm, bốc hơi và
chảy tràn. Cân bằng nước cho tầng đất gồm
ngấm, bốc thoát hơi, thấm và chảy sát mặt. Cân
bằng nước cho lượng nước ngầm gồm lượng
cung cấp cho nước ngầm, bốc thoát hơi từ tầng
sâu và dòng chảy sát dòng ngầm.
Dòng chảy mặt được tính toán dựa vào
phương pháp hệ số dòng chảy liên quan đến độ
ẩm:
)/( snr PcS θθ= (1)
Trong đó, S: dòng chảy mặt [L/T]; Pn=P-I,
mưa vượt thấm [L/T]; θ : lượng ẩm đất trung
bình [L3/T3]; sθ : lượng ẩm bão hòa [L3/T3], giả
định phụ thuộc vào độ dốc, thảm phủ và thổ
nhưỡng. Hệ số dòng chảy mặc định lấy từ các
nghiên cứu trước đó và một bảng liên quan tới
các hệ số dòng chảy và độ dốc, thảm phủ, thổ
nhưỡng. Hệ số dòng chảy trong phương trình
(1) giả định là một tham số trong mô hình và
được mặc định bằng 1 khi trạng thái bão hòa
xảy ra và có dòng ngầm.
Lượng bốc thoát hơi thực tế từ đất và thảm
phủ được tính toán bởi công thức:
=(t)SE i
fpe
f
wf
w
pe
Ec
Ec
θθ
θθθθ
θθ

<⎥⎥⎦

⎢⎢⎣



khi
khi
(2)
Trong đó, Ep: lượng bốc thoát hơi tiềm năng
[L/T]; ce: hệ số thảm phủ quyết định bởi các
loại thảm phủ thay đổi trong năm [L/T]; fθ là
khả năng trữ ẩm của đất [L3/T3]; wθ : lượng
ẩm tại thời điểm thực vật bị héo [L3/T3].
Thấm được giả định là chảy trực ti
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status