Kinh tế học Phật giáo - pdf 17

Download miễn phí Kinh tế học Phật giáo



 
Nếu bản tính của công việc được đánh giá và áp dụng đúng, nó sẽ thay mặt cho cùng mối quan hệ giống nhau đối với các quan năng cấp cao, như thực phẩm đối với cơ thể vật lý. Nó nuôi dưỡng và gây phấn chấn con người cao quí hơn và thúc giục người ấy tạo ra cái gì tốt nhất mà họ có thể làm được. Nó định hướng ý chí tự do của người ấy đi theo tiến trình đúng và rèn luyện con thú trong họ vào trong các hướng đi tiến bộ. Nó trang bị một nền tảng tuyệt vời cho con người để phô bày thang đo các giá trị và phát triển nhân cách của họ[7]. Nếu một người không có cơ hội nào để có được công việc, họ đang ở trong một vị thế tuyệt vọng, không chỉ vì họ không có thu nhập mà còn vì họ không có nhân tố nuôi dưỡng và gây phấn chấn ấy của công việc có kỷ luật vốn không gì có thể thay thế được. Một nhà kinh tế học hiện đại có thể dính đến những tính toán phức tạp cao về việc liệu có đủ công việc “được trả công” không hay liệu việc điều hành một nền kinh tế với ít công việc đầy đủ hơn có thể có “tính kinh tế” hơn để đảm bảo một tính di động lớn hơn nhiều của lao động, một sự cân bằng tốt hơn của mức lương, v.v. không. Tiêu chuẩn nền tảng của họ cho sự thành công chỉ đơn giản là tổng số lượng hàng hóa được sản xuất ra trong một thời gian nhất định. “Nếu mức cầu cập biên về hàng hóa là thấp”, giáo sư Galbraith nói trong The Affluent Society, “thì mức cầu về việc thuê lao động cho người cuối cùng hay người thứ 1 triệu cuối cùng trong lực lượng lao động cũng vậy”[8]. Và hơn nữa: “Nếu chúng ta có thể đủ sức trợ cấp cho sự thất nghiệp nào đó vì lợi ích của sự cân bằng – một gợi ý, ngẫu nhiên là, của một số tiền lệ được bảo lưu một cách hoàn hảo – thì chúng ta có thể đủ sức để đem lại cho những người thất nghiệp những hàng hóa cho phép họ duy trì mức sống thông thường của họ.” Từ một điểm nhìn Phật giáo, điều này đặt chân lý đứng bằng đầu bằng việc xem hàng hóa như quan trọng hơn con người và sự tiêu dùng là quan trọng hơn hoạt động sáng tạo. Điều đó có nghĩa là chuyển sự nhấn mạnh từ người lao động đến sản phẩm lao động, tức là, từ con người đến cái dưới-con người, một sự đầu hàng trước các thế lực của cái xấu.
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

Kinh tế học Phật giáo
E. F. Schumacher Hoàng Phú Phương dịch
“Chính nghiệp” là một trong những đòi hỏi tiên quyết của Bát chính đạo của Đức Phật. Thế nên, rõ ràng là phải có một thứ như Kinh tế học Phật giáo. Các quốc gia Phật giáo thường phát biểu rằng họ muốn giữ lòng trung thành với di sản của họ. Và nước Burma[1] cũng vậy: “Nước Burma mới không thấy có bất kỳ xung đột nào giữa các giá trị tôn giáo với sự tiến bộ kinh tế. Sức khỏe tinh thần và phúc lợi vật chất không phải là kẻ thù [của nhau]: chúng là các đồng minh tự nhiên”[2].hay “chúng tui có thể hoà quyện thành công các giá trị tôn giáo và tinh thần của di sản của chúng tui với các lợi ích của công nghệ hiện đại”[3] hoặc: “Người Burman chúng tui có một bổn phận thiêng liêng là làm cho các giấc mơ và hành vi của chúng tui phù hợp với đức tin của chúng tôi. Đây là điều chúng tui sẽ luôn thực hiện”[4] Dù sao, các quốc gia ấy vẫn luôn thừa nhận rằng họ có thể mô hình hóa các kế hoạch phát triển kinh tế của họ phù hợp với nền kinh tế hiện đại, và họ kêu gọi các nhà kinh tế hiện đại từ các quốc gia được đánh giá là đã tiến bộ để tư vấn cho họ, để đưa ra các chính sách sẽ được theo đuổi, và để kiến tạo bản thiết kế lớn cho sự phát triển, Kế hoạch 5 năm hay ta có thể gọi là gì cũng được. Dường như, không ai nghĩ rằng một lối sống Phật giáo sẽ cần đến Kinh tế học Phật giáo, giống như lối sống duy vật hiện đại đã mang lại Kinh tế học hiện đại. Bản thân các nhà kinh tế học, giống như hầu hết các chuyên gia, thông thường bị một loại mù quáng Siêu hình học, khi cho rằng khoa học của họ là một khoa học về các chân lý tuyệt đối và bất biến, mà không có bất kỳ tiền-giả định nào. Một số còn đi xa đến mức tuyên bố rằng các qui luật kinh tế là thoát khỏi “Siêu hình học” hay “các giá trị” như [thoát khỏi] định luật hấp dẫn. Tuy nhiên, chúng ta không cần dính vào các lập luận về phương pháp luận. Thay vào đó, chúng ta hãy lấy một số nguyên tắc cơ bản và xem chúng trông như thế nào khi được nhìn bởi một nhà kinh tế học hiện đại và một nhà kinh tế học Phật giáo. Có sự nhất trí phổ quát rằng một suối nguồn nền tảng của sự giàu có là lao động của con người. Ngày nay, người ta dạy cho nhà kinh tế học hiện đại phải xem “lao động” hay việc làm như cái gì đó còn thấp kém hơn cả một điều xấu cần thiết [necessary evil]. Từ điểm nhìn của người chủ, trong mọi trường hợp thì lao động cũng đơn giản là một món hàng có giá cả, phải được giản lược đến một mức tối thiểu nếu không thể loại bỏ nó hết được, có thể nói là, bằng sự tự động hóa. Từ điểm nhìn của người lao động, nó là một “sự mất tính hữu dụng” [disutility]; [vì] làm việc là chấp nhận một sự hi sinh sự nhàn rỗi và thoải mái của một người, và tiền lương là một loại đền bù cho sự hi sinh ấy. Vì thế, lý tưởng từ điểm nhìn của người chủ là phải có sản lượng mà không cần người lao động, và lý tưởng từ điểm nhìn của người lao động là phải có thu nhập mà không cần làm việc. Các hệ luận của những thái độ ấy trong cả lý thuyết lẫn thực hành, dĩ nhiên, là có ảnh hưởng cực kỳ rộng. Nếu lý tưởng của công việc là phải tống khứ công việc đi, thì mọi phương pháp “giảm thiểu gánh nặng công việc” là một điều tốt. Phương pháp thuyết phục nhất, khi không có đủ sự tự động hóa, là cái gọi là “phân công lao động” và ví dụ kinh điển là nhà máy đinh ghim được ca tụng trong cuốn Wealth of Nations [Sự giàu có của các quốc gia][5] của Adam Smith. Ở đây, nó không phải là một vấn đề về sự chuyên môn hóa thông thường mà nhân loại đã thực hành từ thời thượng cổ, mà là vấn đề về việc phân chia mọi tiến trình hoàn tất của sự sản xuất thành các phần tính bằng phút, để sản phẩm cuối cùng có thể được sản xuất ra với tốc độ lớn mà không cần bất kì ai phải vận động chân tay gì nhiều và, trong hầu hết trường hợp, không cần có kỹ năng. Điểm nhìn Phật giáo xem chức năng của công việc ở ít nhất 3 lớp: 1) mang lại cho con người một cơ hội để sự dụng và phát triển các quan năng của họ; 2) cho phép con người vượt qua tính cái tôi-trung tâm [ego-centeredness] của họ bằng cách kết hợp với những người khác trong một nhiệm vụ chung; và 3) mang lại hàng hóa và các dịch vụ cần thiết cho một sự hiện hữu thích hợp. Hơn nữa, các hệ luận nảy sinh từ quan niệm này là không bao giờ hết. Tổ chức công việc theo một cách thức làm cho nó trở nên vô nghĩa, nhàm chán, mất tính hữu dụng, hay hành hạ thần kinh đối với người lao động hẳn sẽ không khác gì tui phạm; nó sẽ đòi hỏi một sự quan tâm về hàng hóa lớn hơn nhiều là về con người, một sự thiếu cảm thông xấu xa và một mức độ tàn phá linh hồn đối với phương diện nguyên thủy nhất của sự hiện hữu trần thế này. Cũng như vậy, phấn đấu cho sự thư giãn như một chọn lựa thay cho công việc hẳn sẽ được xem như một sự hiểu sai hoàn toàn về một trong các chân lý cơ bản của sự hiện hữu của con người, tức là công việc và sự thư giãn đều là các bộ phận bổ sung của cùng tiến trình sống giống nhau và không thể bị tách rời mà không phá hủy niềm vui của công việc và cái thú của sự thư giãn. Từ điểm nhìn Phật giáo, vì thế có hai kiểu cơ giới hóa mà ta cần phân biệt rõ ràng: một kiểu là việc thúc đẩy kỹ năng và năng lực của một người và kiểu kia là biến công việc của con người thành một sự nô lệ có tính cơ giới, để con người vào một vị thế phải phục vụ như nô lệ. Làm thế nào phân biệt cái này với cái kia? Ananda Coomaraswamy, một người có thẩm quyền ngang bằng khi nói về Tây phương hiện đại cũng như Đông phương cổ đại, nói rằng, “chính người thợ luôn có thể, nếu được cho phép, đưa ra sự phân biệt tinh tế giữa máy móc với dụng cụ. Khung dệt thảm [bằng tay] là một dụng cụ, một thiết bị để giữ các sợi vải dọc ở một độ căng để lớp tơ mịn được dệt quanh chúng bằng những ngón tay của người thợ; nhưng khung dệt bằng năng lượng là một cái máy, và ý nghĩa của nó như một kẻ phá hoại văn hóa nằm trong sự kiện rằng nó làm phần công việc thuộc bản chất người”[6]. Vì thế, rõ ràng là kinh tế học Phật giáo phải rất khác với Kinh tế học của thuyết Duy vật hiện đại, vì người Phật tử xem bản chất của sự văn minh không nằm trong một sự nhân lên của các nhu cầu mà nằm trong sự thanh lọc phẩm tính của con người. Phẩm tính ấy, cùng lúc đồng thời, được hình thành chính yếu bởi công việc của một người. Và công việc, được hướng dẫn riêng trong các điều kiện về phẩm giá và tự do con người, ban phước cho những ai thực hiện nó và các các sản phẩm của họ một cách ngang bằng. Triết gia và kinh tế gia người Ấn J. C. Kumarappa tổng kết vấn đề này như sau: Nếu bản tính của công việc được đánh giá và áp dụng đúng, nó sẽ thay mặt cho cùng mối quan hệ giống nhau đối với các quan năng cấp cao, như thực phẩm đối với cơ thể vật lý. Nó nuôi dưỡng và gây phấn...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status