Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam - pdf 19

Download miễn phí Luận văn Phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính bảo hiểm xã hội ở Việt nam



Tại hầu hết các nước đều quy định trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp phụ thuộc vào mức độ thương tật với cách trợ cấp có thể là chi một lần hay dài hạn.
Ở Pháp người lao động bị tai nạn dẫn đến thương tật được trợ cấp dài hạn. Nếu người được bảo hiểm vẫn còn thực hiện được một hoạt động kiếm sống thì được hưởng trợ cấp là 30% mức lương bình quân (bình quân của 10 năm lương cao nhất). Nếu người được bảo hiểm không còn thực hiện được một hoạt động kiếm sống thì được hưởng trợ cấp là 50% mức lương bình quân.
Ở Anh người lao động bị tai nạn lao động tạm thời được hưởng 8 tuần như trợ cấp ốm đau. Kể từ tuần thứ 8 trở đi mức đồng đều được hưởng là 25 bảng/tuần cộng với 15,45 bảng cho vợ và 0,3 bảng cho con. Đối với trợ cấp dài hạn tối đa là 53,6 bảng/tuần cho mức thương tật là 100%.
Ở Thái lan mức trợ cấp ngắn hạn là 60% lương, tối thiểu là 2000 bạt/tháng, tối đa là 9000 bạt/tháng. Người lao động được nhận trợ cấp tai nạn lao động ngắn hạn phải nghỉ việc từ 3 ngày trở lên, thời hạn hưởng tối đa là 52 tuần.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ế độ chính sách nên Ngân sách Nhà nước phải chi thêm một khoản tương đối lớn. Người lao động được hưởng 6 chế độ bảo hiểm xã hội là: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tử tuất. Đối tượng trên chủ yếu là những người lao động thuộc khu vực Nhà nước, lực lượng vũ trang, các đoàn thể hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Riêng chăm sóc y tế do Bộ Y tế quản lý thực hiện khám chữa bệnh không mất tiền. Điều đó nói lên sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển. Tuy nhiên, việc quy định chế độ thu bảo hiểm xã hội này mang nặng tính bao cấp, ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước, cơ chế thu, công tác tổ chức thu không thống nhất, phân tán , công tác kiểm tra thu bị buông lỏng, không có biện pháp chế tài đối với những cơ quan, đơn vị không làm nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội đầy đủ khiến cho Ngân sách Nhà nước phải bù đắp một tỷ lệ lớn và có xu hướng tăng, năm sau cao hơn năm trước. Cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước hỗ trợ phần quỹ BHXH
do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý
Giai đoạn 1964-1987
Năm
Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước
hỗ trợ qua các năm
Ghi chú
1964
4,70%
1965
37,40%
1966
41,60%
1968
54,80%
1970
70,30%
1971
80,10%
1972
84,40%
1976
83,20%
1981
89,20%
1982
91,90%
1983
93,90%
1985
97,00%
1987
97,67%
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam)
Trước tình hình Ngân sách Nhà nước chi cho các chế độ bảo hiểm xã hội do hai cơ quan này quản lý đều có xu hướng ngày càng tăng, tháng 10/1986, Chính phủ đã ra quyết định số 236/HĐBT sửa đổi một số nội dung về bảo hiểm xã hội Việt nam.
-Tháng 10/1986, nâng mức nộp quỹ bảo hiểm xã hội thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý từ 3,7% lên 5% trên tổng quỹ lương.
-Tháng 3/1988, nâng mức nộp quỹ bảo hiểm xã hội thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý từ 1% lên 10% trên tổng quỹ lương.
Như vậy mức thu đã được nâng lên từ 4,7% lên 15% quỹ tiền lương và do người sử dụng lao động đóng còn người lao động vẫn không phải đóng.
Chính sách bảo hiểm xã hội theo Nghị định số 236/HĐBT nhằm mục tiêu góp phần giảm biên chế tại các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước nhưng lại trở thành gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước phải bao cấp thêm về bảo hiểm xã hội. Chi của Ngân sách Nhà nước vẫn chiếm phần lớn trong tổng số chi bảo hiểm xã hội, cụ thể tình hình chi bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý như sau:
Bảng 2.2: Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước hỗ trợ phần quỹ BHXH
do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quản lý
Giai đoạn 1988-1992
Năm
Tỷ lệ % Ngân sách Nhà nước
hỗ trợ qua các năm
Ghi chú
1988
70,95%
1989
67,41%
1990
73,82%
1992
85,85%
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt nam)
Nhưng số thu bảo hiểm xã hội hàng năm cũng không đảm bảo theo chỉ tiêu kế hoạch, bình quân trong cả thời gian dài từ năm 1962 đến tháng 9/1995, số thu thực tế chỉ bằng khoảng 86% kế hoạch đề ra ở cả quỹ bảo hiểm xã hội do Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Bộ Lao động Thương binh và xã hội quản lý. Thậm chí có những năm chỉ đạt 70-75% kế hoạch. Về số tuyệt đối, cả thời kỳ từ năm 1962 đến tháng 9/1995 tổng số thu thực tế của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam là 958.371.371.943 đồng, Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ 5.476.900.000 đồng. Từ thực tế thu không đủ chi Ngân sách Nhà nước phải cấp bù nên Chính phủ phải tiến hành cải cách chính sách chế độ bảo hiểm xã hội trong đó có chính sách tài chính bảo hiểm xã hội.
Từ những năm đầu của thập kỷ 90, để thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đưa chủ trương đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội để từng bước hình thành quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với Ngân sách Nhà nước, giảm bớt bao cấp. Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 quy định tạm thời về chế độ bảo hiểm xã hội. Trong Nghị định 43/CP quy định rõ cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tham gia đóng bảo bảo hiểm xã hội, người lao động được hưởng các chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội gồm trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất. Quỹ bảo hiểm xã hội được hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Chính phủ thành lập bảo hiểm xã hội Việt nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam và Bộ Lao động Thương binh và xã hội để quản lý quỹ và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội theo pháp luật của Nhà nước. Thành lập Hội đồng quản lý là cơ quan chỉ đạo cao nhất của tổ chức bảo hiểm xã hội Việt nam.
2.2. Thực trạng chính sách tài chính Bảo hiểm xã hội trong thời kỳ đổi mới (1995 – nay)
Sau khi Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994, Nghị định 43/CP quy định tạm thời về chê độ bảo hiểm xã hội được thay thế bằng Nghị định 12/CP của Chính phủ ngày 26/1/1995 ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội, Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập bảo hiểm xã hội Việt nam, Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân, Quyết định số 606/TTg ngày 26/9/1995 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt nam và một số văn bản bổ sung hướng dẫn của các ngành, các cấp có liên quan. Những văn bản trên quy định đổi mới một cách toàn diện về bảo hiểm xã hội. Riêng về chính sách tài chính có một số nội dung đổi mới chủ yếu sau:
2.2.1. Đổi mới về chức năng quản lý Bảo hiểm xã hội
Nội dung chính là phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước về Bảo hiểm xã hội và chức năng hoạt động sự nghiệp Bảo hiểm xã hội. Điều 41, Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 quy định rõ: “Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội là cơ quan thực hiện quản lý Nhà nước về bảo hiểm xã hội”.
Nội dung quản lý Nhà nước của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về bảo hiểm xã hội:
-Xây dựng pháp luật và trình Chính phủ ban hành pháp luật về BHXH.
-Ban hành các văn bản pháp luật quy định về bảo hiểm xã hội thuộc thẩm quyền hướng dẫn của Bộ.
-Kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội.
Tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hôi Việt nam bao gồm:
Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam là cơ quan quản lý cao nhất của Bảo hiểm xã hội Việt nam. Thành viên của Hội đồng quản lý bao gồm: Đại diện có thẩm quyền của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn lao động Việt nam.
Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam có Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành viên do Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Trưởng ban Tổ chức Chính phủ. Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt nam có 7 nhiệm vụ được quy định t...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status