Định hướng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam đến năm 2010 - pdf 19

Download miễn phí Khóa luận Định hướng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam đến năm 2010



MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN CHẾ BIẾN TRÊN THẾ GIỚI 3
I. Tình hình sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản chế biến
trên Thế giới 3
II. Mậu dịch hàng nông sản chế biến thế giới trong những
năm 90 và đầu thế kỷ 21 4
1. Thực trạng xuất khẩu theo nhóm nước và khu vực 4
2. Thực trạng xuất nhập khẩu theo nhóm hàng 8
3. Thực trạng xuất nhập khẩu một số nông sản chế biến chủ yếu 9
4. Tình hình giá cả xuất khẩu các nông sản chế biến 9
III. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mậu dịch hàng nông sản
chế biến thế giới 11
1. Tác động của chính sách Chính phủ 11
2. Tác động của các xu hướng sản xuất và trình độ công nghệ 12
3. Tác động của khủng hoảng tài chính – tiền tệ 13
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU HÀNG
NÔNG SẢN CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM 14
I. Tình hình chung về sản xuất nông nghiệp và thực trạng
công nghiệp chế biến nông sản 14
1. Tình hình chung về sản xuất nông nghiệp 14
2. Thực trạng công nghiệp chế biến nông sản 15
2.1. Thành tựu 15
2.2. Hạn chế 18
II. Thực trạng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam
- Đánh giá 24
III. Triển vọng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản chế biến của
Việt Nam đến năm 2010 46
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CHẾ BIẾN
CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2001 – 2010 48
I. Định hướng tổng thể 48
II. Định hướng xuất khẩu nông sản chế biến của Việt Nam
giai đoạn 2001 – 2010 48
III. Kiến nghị 58
1. Phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản chế biến xuất khẩu 59
2. Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu 62
3. Tăng cường vai trò của Chính phủ trong hoạt động xuất khẩu
nông sản chế biến 65
4. Các biện pháp xúc tiến thương mại hàng nông sản chế biến 67
5. Tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường
xuất khẩu nông sản chế biến thế giới 69
KẾT LUẬN 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO 72
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

tác động của hạn hán, xuất khẩu cà phê năm 1998 chỉ đạt 382 ngàn tấn, giảm 18 ngàn tấn so với kế hoạch 400 ngàn tấn đề ra từ đầu năm và giảm khoảng 2% so với lượng đã thực hiện năm 1997 (389 ngàn tấn). Tuy nhiên, do giá xuất khẩu bình quân tăng gần 300USD/tấn so với năm 1997 nên kim ngạch cả năm đã tăng tới 21% và đạt 594 triệu USD, mức cao nhất từ trước tới nay. Theo tổng cục Hải quan, niên vụ 2001 - 2002, lượng xuất khẩu đạt 762,4 ngàn tấn cà phê nhân, giảm 19,4% so với niên vụ trước. Kim ngạch xuất khẩu 288,6 triệu USD, là vụ có kim ngạch thấp nhất kể từ niên vụ 1997 - 1998. Xuất khẩu cả năm 2002 đạt trên 700 ngàn tấn, kim ngạch trên 300 triệu USD, giảm gần 230 ngàn tấn và 90 triệu USD so với năm trước. Giá xuất khẩu bình quân 431USD/tấn.
Bạn hàng chủ yếu của Việt Nam, như năm 1997, vẫn là Mỹ (chiếm tỷ trọng khoảng 25%) và Châu âu (chiếm tỷ trọng khoảng 50%, riêng Đức là 16%). Nhật Bản vẫn nằm trong số 10 bạn hàng lớn nhất nhưng tỷ trọng tương đối nhỏ (khoảng 3%) nên khủng hoảng kinh tế tại nước này hầu như không ảnh hưởng gì đến tiến độ xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong năm 1998. Đến năm 2002, ngành cà phê đã phấn đấu mở rộng thị trường xuất khẩu từ 61 lên 64 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cây cà phê đã có mặt ở Việt nam từ lâu nhưng chỉ thực sự phát triển trong vòng 20 năm trở lại đây, nhất là những năm từ đầu thập kỷ 90. Từ chỗ hàng năm chỉ xuất khẩu trên dưới 100 ngàn tấn, đến năm 1992 lượng cà phê xuất khẩu đã vượt quá mức 100 ngàn tấn và trở thành một trong những mặt hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm. Năm 1995, sản lượng xuất khẩu lần đầu tiên vượt qua mức 200 ngàn tấn và chỉ hai năm sau đã đạt gần 400 ngàn tấn. Kết quả này đã đưa Việt Nam vượt qua Uganđa và Indonesia để trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Nếu tính tất cả các chủng loại cà phê thì Việt Nam đã vượt Mexico để chiếm vị trí thứ 3, chỉ sau Braxin và Colombia. Tỷ trọng của Việt Nam trong thương mại cà phê quốc tế hiện nay khoảng 7%.
Bảng sau đây cho thấy bước tiến vượt bậc của cà phê Việt Nam trong các năm từ 1993 đến 1999 (vụ mùa cà phê được tính từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 9 năm sau):
BảNG 6: xuất khẩu cà phê của việt nam, giai đoạn
1993-1999
NIêN Vụ
SảN LượNG XUấT KHẩU (TấN)
KIM NGạCH XUấT KHẩU (NGàN USD)
GIá BìNH QUâN (USD/T FOB VIETNAM)
1993 - 1994
165,000
226,790
1,374
1994 - 1995
212,038
558,280
2,633
1995 - 1996
232,765
422,436
1,815
1996 - 1997
358,512
427,991
1,194
1997 - 1998
391,326
592,279
1,514
1998 - 1999
405,616
557,000
1,373
Nguồn: Thống kê Hải quan và Bộ thương mại
Thời kỳ 1990 - 1994, diện tích trồng cà phê tăng không đáng kể (có năm còn giảm) nhưng sản lượng tăng rất nhanh do đa số các vườn cà phê đến độ trưởng thành và cho năng suất rất cao. Thời kỳ 1994 - 1996, giá cà phê thế giới tăng đột biến nên diện tích trồng cà phê cũng tăng mạnh ở khắp các tỉnh Tây Nguyên. Đến hết năm 1998, theo ước tính của Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam, diện tích trồng cà phê ở Việt Nam đã đạt xấp xỉ 370,000 ha, trong đó riêng 3 tỉnh Tây Nguyên đã chiếm khoảng 60%. Tuyệt đại đa số diện tích được sử dụng để trồng robusta, chỉ có khoảng 20,000 ha là trồng arabica.
Trước năm 1995, cà phê Việt Nam được đưa vào thị trường thế giới thông qua mạng lưới tiêu thụ của các doanh nhân Singapore (chiếm tỷ trọng gần 45%). Từ năm 1995, khi Mỹ bỏ cấm vận, vai trò của trung gian Singapore giảm dần. Khách hàng Mỹ đã nhanh chóng tìm đến Việt Nam và chỉ sau 1 năm họ đã trở thành bạn hàng số 1, hàng năm mua khoảng 24% lượng cà phê của Việt Nam (năm 1996 lên tới gần 30%). Khách hàng Đức luôn chiếm vị trí số 2. Những bạn hàng quan trọng khác gồm: Pháp, Bỉ, Italia, Tây Ban Nha, Anh, Angiêri, Ba Lan và Nhật Bản. Singapore, kể từ năm 1996, không còn nằm trong danh sách 10 bạn hàng lớn nhất nữa. Một yếu tố đáng chú ý là ngoài các nhà buôn, các nhà rang xay cà phê nổi tiếng trên thế giới cũng đã xuất hiện tại Việt Nam để thiết lập quan hệ mua bán trực tiếp. Tuy tỷ trọng bán cho rang xay còn nhỏ nhưng đây là dấu hiệu khởi đầu tốt đẹp bởi rang xay chỉ mua trực tiếp khi cà phê có độ đồng đều nhất định về cỡ hạt và chất lượng hạt.
Sản lượng tăng rất nhanh nhưng cho tới nay ngành cà phê Việt Nam mới chỉ có khoảng 20 cơ sở chế biến vào loại hoàn chỉnh. Tổng công suất của các cơ sở này đạt trên dưới 100,000 tấn/năm, chỉ đảm bảo chế biến tốt từ 25% đến 30% sản lượng cà phê. Số còn lại được chế biến phân tán tại các hộ gia đình và các nông trường nhỏ theo phương pháp thủ công hay bằng các thiết bị vừa cũ, vừa không đồng bộ.
Vào cuối năm 1994, trước tình trạng lộn xộn, tranh mua tranh bán trên thị trường cà phê, Chính phủ đã quyết định thiết lập chế độ đầu mối xuất khẩu. Hình thức quản lý đầu mối đối với cà phê không giống như gạo. Cụ thể, tất cả các doanh nghiệp là thành viên hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam, kể cả doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nếu xuất khẩu được 2000 tấn/năm sẽ mặc nhiên được Bộ thương mại công nhận là đầu mối xuất khẩu và, khi đã là đầu mối, họ được quyền xuất khẩu với số lượng không hạn chế. Chế độ đầu mối này không những không ảnh hưởng đến quyền lợi của người trồng cà phê mà còn góp phần quan trọng trong việc nâng dần tỷ trọng cà phê đã qua chế biến bởi trong điều kiện cà phê đã được tư nhân hoá hay giao khoán cho các hộ gia đình chỉ có các công ty chuyên doanh mới đủ mạnh để đầu tư máy móc nhằm nâng cao chất lượng cà phê và chế biến cà phê hoà tan.
Bảng 7: Tình hình xuất khẩu cà phê 5 năm từ 1997 - 2001
Niên vụ
Sản lượng xuất khẩu
Giá trị
Giá bình quân
1000 tấn
Triệu USD
USD/tấn
1997
391,6
493,7
1,260
1998
381,8
593,8
1,560
1999
482,4
585,3
1,210
2000
733,9
501,5
680
2001
932
392
420
Nguồn: Bộ NN & PTNT
Theo bảng trên ta thấy, sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam liên tục tăng do cà phê được giá trong những năm này, nông dân đẩy mạnh phát triển diện tích cà phê. Tuy nhiên, khi cà phê bắt đầu cho thu hoạch thì giá cà phê trên thị trường thế giới bắt đầu giảm mạnh trong khi lượng cà phê tiêu thụ trong nước không đổi. Để bù lại chi phí sản xuất đã bỏ ra, Việt Nam buộc phải tiếp tục xuất khẩu cà phê với giá thấp.
Hạt điều (nhân điều):
Xuất khẩu nhân điều năm 1998 đạt 25,6 ngàn tấn, hụt gần 10 ngàn tấn so với kế hoạch 35 ngàn tấn đặt ra từ đầu năm và giảm hơn 23% so với lượng đã thực hiện năm 1997 (33,3 ngàn tấn). Tuy nhiên, do giá xuất khẩu bình quân năm 1998 tăng hơn 14% so với năm 1997 nên kim ngạch xuất khẩu đã đạt 117 triệu USD, chỉ giảm 12,3% so với 133 triệu USD đã thực hiện năm 1997. Năm 2002, lượng điều xuất khẩu đạt trên 60 ngàn tấn, kim ngạch trên 200 triệu USD, tăng 19 ngàn tấn và gần 60 triệu USD so với năm trước. Giá xuất khẩu bình quân 4,000USD/tấn (loại tốt).
Nhân điều là một trong số ít những mặt hàng không bị tác động xấu của khủng hoảng tài chính 1997 - 1998 (không gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ). Sản lượng xuất khẩu giảm chủ yếu là do vườn c...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status