Giá cả tài sản trong khuôn khổ lạm phát mục tiêu linh hoạt - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Giá cả tài sản trong khuôn khổ lạm phát mục tiêu linh hoạt



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG1: MỐI LIÊN HỆGIỮA GIÁ CẢTÀI SẢN VÀ LẠM PHÁT. NHỮNG
HIỂU BIẾT BAN ĐẦU VỀCHÍNH SÁCH “DỰA THEO CHIỀU GIÓ”: . 1-6
1.1 Các định nghĩa: .1
1.1.1 Lạm phát mục tiêu: .1
1.1.2 Lạm phát mục tiêu linh hoạt: .1
1.1.3 Chính sách phản ứng dựa theo chiều gió (LATW): .1
1.1.4 Sai lệch trong giá tài sản (APM): .1
1.2 Mối liên hệgiữa giá tài sản và lạm phát: . 1-3
1.2.1 Tỷgiá hối đoái: . 1-2
1.2.2 Giá cảchứng khoán: .2
1.2.3 Giá cảbất động sản: .3
1.3 Những ý tưởng ban đầu của LATW của Poole (1970): . 3-6
1.3.1 Xét một cú sốc công nghệtích cực (positive technology shock): . 4-5
1.3.2 Xét một cú sốc tài chính thuần túy (A shift in the risk premium): . 5-6
CHƯƠNG 2: CÁC QUAN ĐIỂM CHÍNH SÁCH TIỀN TỆKHÔNG NÊN PHẢN
ỨNG VỚI NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG GIÁ TÀI SẢN: . 6-11
2.1 Phương trình đơn giản xác định lãi suất ngắn hạn Taylor: .6
2.2 Mô hình Bernanke-Gertler phản ứng với giá cổphiếu trong nền kinh tế đóng: . 6-9
2.3 Quan điểm vềvai trò của CSTT sau khủng hoảng: . 9-10
2.4 Các lập luận vềviệc CSTT không nên phản ứng với những biến động trong giá tài sản. 10-11
CHƯƠNG 3: CÁC QUAN ĐIỂM ỦNG HỘCHÍNH SÁCH TIỀN TỆPHẢN ỨNG
VỚI NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG GIÁ TÀI SẢN . 11-41
3.1 Phản ứng với biến động trong giá tài sản ngay cả khi chưa có dấu hiệu thay
đổi lạm phát kì vọng. 11-13
3.2 Cải tiến hàm phản ứng . 13-16
3.2.1 Mô hình cải tiến đưa hốcách sản lượng vào hàm phản ứng. 13-14
3.2.2 Xem xét thêm biến động của lãi suất . 14-15
3.2.3 Xem xét nhữngthay đổi trong lạm phát kì vọng . 15-16
Phản ứng đối với tỉgiá hối đoái. 16-24
3.4Xác định chỉsố nhà đất. 24-26
3.5 Những cốgắng trong việc phát hiện ra sai lệch trong giá tài sản. 26-38
3.5.1 Khó khăn trong việc đo lường giá trịnội tại cổphiếu . 26-28
3.5.2 Mối quan hệgiữa vai trò của tín dụng và sựlệch lạc trong giá tài sản. 28-38
3.5.2.1 Các dữliệu . 30-31
3.5.2.2 Một sốbằng chứng sơ bộvềphát hiện sựvỡnợgiá tài sản. 31-34
3.5.2.3 Một sốkết quảcủa một cách tiếp cận kiểu đơn vịxác suất dựa trên cách thức gộp lại. 34-38
3.6 Vai trò của CSTT thời kì hậu khủng hoảng . 38-41
CHƯƠNG 4: THỰC NGHIỆM VỀVIỆC THỰC THI CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
DỰA THEO CHIỀU GIÓ VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM . 42-50
4.1 Mỹthất bại, Nhật Bản thất bại vì hành động châm thủng bong bóng gây ra
biến động mạnh . 42-46
4.1.1 CSTT và bong bóng tài sản ởNhật Bản . 42-45
4.1.2 CSTT của Nhật trong việc phá vỡ bong bóng và sau đó là giảm phát . 45-46
4.1.3 Bài học vềbong bóng và hậu quảcủa nó .46
4.2 LATW có thểthực hiện trong thực tế? Trường hợp Thụy Điển .46
4.3 Mối quan hệgiữa lãi suất và giá chứng khoán trên thị trường Việt Nam. 47-48
4.4 Bài học rút ra cho Việt nam thông qua bài nghiên cứu. 49-50
PHẦN KẾT LUẬN . 50-51
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤLỤC . 1-8



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

iệt của các cú sốc
trong các mô phỏng của họ. Rõ ràng, khi những cú sốc sản xuất đủ quan trọng, việc
dựa vào chiều hướng biến động tỷ giá hối đoái trở nên phản tác dụng.
Hiệu ứng bù đắp của tỷ giá và lãi suất đối với lạm phát tùy thuộc vào bản chất của
cú sốc. Nếu đồng bản tệ giảm giá do một cú sốc thuần tuý về đầu tư gián tiếp, thì lạm
phát dường như là tăng lên và phản ứng thích hợp trong trường hợp này là kiểm soát
lạm phát bằng việc thắt chặt CSTT thông qua việc tăng lãi suất. Ở các quốc gia thị
trường mới nổi mà có mức độ đô la hoá tài sản nợ ở mức cao, thì việc thắt chặt CSTT
nhằm ngăn chặn trường hợp đồng bản tệ bị phá giá mạnh, thậm chí có thể còn cần thiết
hơn để tránh sự mất ổn định của hệ thống tài chính.
Mặt khác, nếu đồng bản tệ giảm giá là do những cú sốc đối với các khu vực thực
(sản xuất) của nền kinh tế (tức là các khu vực phi tài chính - tiền tệ), thì dường như nó
-Trang 19-
ít có tác động đến lạm phát, nên cần thiết phải có phản ứng về CSTT khác với trường
hợp nêu trên; tuy nhiên cũng còn tuỳ từng trường hợp vào bản chất của cú sốc. Một cú sốc về việc
vị thế thương mại xấu đi (tức là hệ số giữa chỉ số giá xuất khẩu so với chỉ số giá nhập
khẩu giảm đi) sẽ làm giảm cầu về hàng xuất khẩu, làm giảm tổng cầu và bởi vậy làm
lạm phát giảm đi. Trong tình huống này, phản ứng đúng về CSTT sẽ là nới lỏng, giảm
lãi suất.
Cuộc khủng khoảng tài chính vào năm 1997 làm cho MCI (Monetary Conditions
Index – Chỉ số trạng thái của CSTT) giảm đáng kể, Ngân hàng Dự trữ New Zealand bắt
đầu điều chỉnh tăng lãi suất vào tháng 6/1998. Bởi vì sự giảm giá là do cú sốc thương
mại âm, nên thắt chặt CSTT đã làm cho cuộc suy thoái trở nên trầm trọng hơn, lạm
phát tăng cao. Cuối cùng, Ngân hàng Dự trữ New Zealand nhận thấy sai lầm và đảo
ngược tiến trình bằng việc giảm nhanh lãi suất vào tháng 7/1998 sau khi nền kinh tế đã
rơi vào suy thoái, thế nhưng quá muộn. Ngân hàng Dự trữ New Zealand nhận thấy sự
bất hợp lý khi sử dụng MCI như là chi số của CSTT và đã bỏ nó vào năm 1999. Trái
ngược với kinh nghiệm của New Zealand, Ngân hàng Dự trữ Úc lại thực hiện chính
sách tỷ giá linh hoạt không can thiệp. Ngân hàng Dự trữ Úc nhận thấy nền kinh tế đang
đương đầu với cú sốc thương mại, do tỷ phần lớn trong cán cân chủ yếu là từ khu vực
Châu Á và quyết định không có chống chọi với sự sụt giá của đồng đô la Úc, vì cho
rằng đó là điều không thể tránh khỏi trong lúc khủng hoảng. Với chính sách này, mặc
dù đồng đô la Úc mất giá so với đồng đô la Mỹ lên tới 20% nhưng lạm phát vẫn trong
phạm vi kiểm soát được.
Kết luận (ii) là đáng ngạc nhiên. Nếu sự thay đổi tỷ giá trong ngắn hạn tương
ứng với đoán về mối quan hệ ngang giá lãi suất và khu vực tư nhân biết rằng bong
bóng xuất hiện và hi vọng nó kéo dài vô tận, sau đó phản ứng với tỷ giá hối đoái có thể
phản tác dụng. Các mô phỏng của Batini và Nelson cho thấy rằng, trong những trường
hợp này, sự tương tác giữa hành vi hoàn toàn hướng về tương lai của khu vực tư nhân
và quy định NHTW tạo ra một kiểu bất ổn định. Có thể nghi ngờ rằng kết quả là mô
-Trang 20-
hình riêng biệt, và sự giải thích của nó trong bất kì trường hợp nào cần được ràng
buộc bởi những sự xem xét sau đây. Thứ nhất, thực tế có cho rằng khu vực tư nhân hi
vọng bong bóng kéo dài vô thời hạn ngay cả khi NHTW đang tích cực tìm cách ngăn
chặn tỷ giá hối đoái đi theo con đường bong bóng hay không? Có thể chính đáng cho
rằng một CSTT phản ứng với sự sai lệch tỷ giá thì ảnh hưởng đến cả xác suất bong
bóng nổi lên ở nơi đầu tiên và độ dài thời gian của nó. Điều này có thể đảo ngược các
kết quả của họ.
Thứ hai, có lẽ các nhà chức trách không nên phản ứng theo cách tương tự tới
bong bóng tỷ giá hối đoái như họ làm đối với biến động tỷ giá hối đoái thông thường?
Rốt cuộc, hai kiểu biến động tỷ giá hối đoái này về cơ bản khác nhau, và vì vậy người
ta sẽ nghĩ rằng họ cần tạo ra các chính sách phản ứng khác nhau. Do đó phản ứng
CSTT tới biến động giá tài sản nên tùy thuộc vào các nguồn gốc cơ bản của các biến
động này, và dựa theo chiều gió có thể hữu ích trong những trường hợp nhất định.
(Xem kĩ phụ lục 2).Tuy nhiên, các kết quả trong bảng sau đã cho thấy rằng, trung bình,
mức độ biến động lạm phát và sản lượng được làm nhỏ lại bởi việc phản ứng trực tiếp
tới sự sai lệch tỷ giá:
Performance of Alternative Monetary Policy Rules under Portfolio Shocks.
Variability of
Instability
index
Inflation Output Short-term
nominal
interest rate
Real
exchange
rate
Portfolio shocks only
Taylor rule, no
reaction to the
exchange rate
3.511 0.457 0.409 0.697 3.793
-Trang 21-
Taylor rule,
with reaction to
the exchange rate
2.619 0.396 0.330 0.715 3.499
IFB rule, no
reaction to the
exchange rate
0.204 0.107 0.134 0.479 2.888
IFB rule, with
reaction to the
exchange rate
0.137 0.0859 0.140 0.532 2.453
Bảng trên trình bày giá trị của toàn bộ chỉ số bất ổn (hàm tổn thất) cũng như
phương sai tiệm cận của lạm phát, sản lượng, lãi suất danh nghĩa và tỷ giá thực, khi cú
sốc duy nhất tới nền kinh tế đến từ mối quan hệ ngang giá lãi suất.
Từ đây, sử dụng lãi suất để cô lập nền kinh tế khỏi “các cú sốc tỷ giá” lại còn
ảnh hưởng của một cú sốc như thế lên dự báo lạm phát của NHTW nữa dường như cải
thiện phúc lợi. Kết quả này là thú vị bởi có những người khẳng định rằng NHTW nên
chỉ cố gắng đánh vào dự báo lạm phát và nếu họ buộc phải cho phép tự mình rối trí bởi
tỷ giá, điều này sẽ dàn xếp lạm phát thấp. Thay vào đó, chúng ta đã thấy rằng đưa sự
sai lệch tỷ giá vào khi thiết lập chính sách lãi suất thật sự có thể làm giảm biến động
lạm phát. Cũng quan trọng để ghi nhớ rằng chính sách được đi theo ở đây không phải
là mục tiêu tỷ giá. Chủ yếu là lãi suất thấp hơn, hành động để giảm biến động sản
lượng và lạm phát.
Tuy nhiên, nếu tỷ giá phải tăng giá vì một sự gia tăng trong tổng cầu, sau đó ít
rõ ràng hơn rằng lãi suất nên được dùng để bù trừ các hiệu ứng của sự tăng giá tỷ giá
liên quan đến cú sốc cầu. Vì thế, nếu tỷ giá phải tăng giá / giảm giá vì một sự gia tăng
(sụt giảm) trong tổng cầu, việc đưa sự sai lệch tỷ giá thêm vào dự báo lạm phát thật sự
sẽ tạo ra sự biến động lạm phát và sản lượng lớn hơn. Khi các nhà hoạch định chính
sách tuân theo một chính sách lãi suất dựa trên dự báo lạm phát, các mức lãi suất ban
-Trang 22-
đầu được giữ thấp hơn trong chiến lược “dựa theo chiều gió” và điều này cũng làm
giảm mức độ tăng giá tỷ giá. Tuy nhiên, mức độ biến động lạm phát tăng lên. Từ đây,
rõ ràng liệu một NHTW có nên phản ứng tới một cú sốc hay không phụ thuộc quan
trọng vào kiểu cú sốc (thí dụ, trong trường hợp này, tổng cầu hay tỷ giá). Tương tự, các
nhà chức trách nên phản ứng như thế nào tới biến động tỷ giá cho trước phụ thuộc vào
biến động là do đâu. T...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status