Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước



MỤC LỤC
 
A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
B. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 3
I. Một số vấn đề lý luận về kinh tế nhà nước 3
II. Vai trò của kinh tế nhà nước 4
1. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường 4
2. Vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. 5
3. Kinh tế nhà nước tất yếu phải giữ vai trò chủ đạo 7
III. Thực trạng về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 7
1. Tình hình 7
2. Nguyên nhân: 9
3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. 11
IV. Tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 12
1. Đối với kinh tế và nước. 12
2. Đối với doanh nghiệp nhà nước 14
CỤ THỂ NHỮNG GIẢI PHÁP 20
C. KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người lao động từng bước được cải thiện.
Năm 2000, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đóng góp 39,5% GDP, 39,2% tổng thu ngân sách, trên 50% kim ngạch xuất khẩu; nộp thuế thu nhập trong 10 năm (1999 đến 2000) gần 64.000 tỷ và có khoảng 250 đơn vị được cấp chứng chỉ ISO, được người tiêu dùng bình chọn đạt chất lượng sản phẩm cao 5 năm liền...
Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.
Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém và hiện nay đang nổi cộm bốn vấn đề gay gắt trong cạnh tranh của kinh tế thị trường định hướng XHCN như sau:
- Quy mô và các mối quan hệ quản lý của doanh nghiệp nhà nước có nhiều điểm chưa hợp lý. Doanh nghiệp nhà nước phát triển còn chồng chéo, trùng lập về ngành nghề, sản phẩm. Nguồn vốn hạn hẹp nhưng lại đầu tư hình thành và phát triển nhiều DNNN có quy mô và quá nhỏ bé. Không đủ lực để tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đây là một sự lãng phí lớn trong đầu tư phát triển.
- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản đối với quá trình nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh các sản phẩm trên thương trường. Nhiều loại vật tư, nguyên liệu tồn kho từ thời kỳ bao cấp đã lỗi thời, phẩm chất đó giảm không tiêu thụ được nhưng doanh nghiệp nhà nước vẫn "treo" lại, chờ nhà nước có biện pháp xử lý. Do đó, doanh nghiệp phải tăng thêm chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn, dẫn đến tình hình tài chính doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Hiệu quả sản xuất doanh nghiệp nhà nước giảm dần. Nợ nần nhiều, quan hệ phải thu, phải trả ngày càng lớn, tình hình tài chính thiếu lành mạnh. Nhà nước phải giúp đỡ hỗ trợ ngày càng nhiều trong khi ngân sách nhà nước còn co hẹp tỷ lệ vay nợ trong và ngoài nước ta.
- DNNN cũng là một trong những "địa chỉ" của tệ lãng phí, tham nhũng, gây thất thoát, tổn thất ngoài tài lực của nhà nước.
Trong 3 năm gần đây số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và đa dạng sở hữu gần như dận chân tại chỗ; nhiều bộ Ngành, địa phương lại thành lập thêm DNNN dù chưa đủ cơ sở và điều kiện phần lớn những doanh nghiệp mới được thành lập không thuộc ngành mũi nhọn, then chốt, mà chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, xây dựng; sản xuất hàng tiêu dùng.... là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có nhiều lợi thế hơn.
Các tổng Công ty 91 tuy là những doanh nghiệp có nhiều lợi thế và tiềm lực, nhưng tình hình cũng chưa sáng sủa so với thực trạng chung của doanh nghiệp nhà nước. Về vốn; 17 doanh nghiệp này nắm giữ tới 80.000 tỷ đồng /126.000 tỷ đồng chiếm tới 63,5% tổng số vốn ngân sách tại các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ các sản phẩm quan trọng nhất và luôn được hưởng những chính sách ưu đãi của chính phủ mỗi khi gặp khó khăn thế nhưng số lãi trước thuế của 17 tổng Công ty trong 6 tháng đầu năm 2001 chỉ đạt 92% so với cùng kỳ, chỉ bằng 47% kế hoạch cả năm, vẫn còn 23% số các doanh nghiệp thành viên bị thua lỗ.
2. Nguyên nhân:
Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan và được đúc rút trong 4 nguyên nhân chính sau:
- Hệ thống thể chế, chính sách đối với DNNN chưa được cải tién kịp quá trình đổi mới theo cơ chế quản lý của nền KTTT. Hệ thống thể chế, chính sách hiện nay vừa thể hiện lối tư duy cũ, nặng cơ chế xin - cho, ban phát, bảo trợ đến mức tối đa từ ngân sách nhà nước, từ các mệnh lệnh theo ý muốn chủ quan của cơ quan hành chính, quản lý cấp trên, để không chênh lệch hướng và mong muốn nó làm được vai trò then chốt, cạnh tranh thắng lợi trên thương trường. Do vậy, quyền tự chủ, tự quyết định của DNNN trên thương trường bị tước bỏ; quyền tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những quyết định, quyết đoán cũng không còn..... Điều đó còn gây tâm lý ỷ lại nặng nề, dựa dẫm vào sự bảo trợ của nhà nước, vừa triệt tiêu động lực, vừa không khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của mình.
- Hai là tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp chưa hợp lý. Với bộ máy quản lý hiện nay, hệ thống DNNN đã phải gánh chịu hai gọng kìm bất cứ lúc nào cũng đến kiểm tra mà giúp đỡ thì ít, hạch sách thì nhiều. Một bên là bộ, ngành, cấp chủ quản của doanh nghiệp và một bên là các tổ chức thanh tra, kiểm tra thuộc bộ quản lý chuyên ngành với hệ thống ngành dọc từ trên xuống dưới.Tức là, tất cả các bộ, ngành với hệ thống dọc, ngay đều có quyền thực hành chức năng của mình tại doanh nghiệp để hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát, thanh tra, kiểm tra,.... trên thực tế, nhiều khi đó là sự nhũng nhiễu phiền hà và gây tổn thất cho doanh nghiệp, hiệu quả thấp và không rõ rệt.
- Đội ngũ cán bộ lãnh đạo DNNN chưa được phát huy và thể hiện được năng lực, bản lĩnh cần có. Yêu cầu đối với giám đốc trong điều kiện mới không chỉ có năng lực, trình độ về nghiệp vụ kinh doanh mà cần có óc sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, sự nhanh nhẹ trong việc thu nhập và xử lý thông tin, sáng suốt trong dự báo các tình huống trên thương trường với sự năng động, chủ động trong kinh doanh, có phẩm chất vững vàng trong quá trình đối mặt với tiền - hàng, coi tài sản của quốc gia như của chính mình với ý thức "vì nhân dân phcụ vụ", làm giàu cho dân, cho nước, cho mình. Trách nhiệm không chỉ thuộc bản thân của từng giám đốc, mà lớn hơn, cao hơn thuộc về hệ thống tổ chức và cán bộ trong việc theo dõi đề bạt, bổ nhiệm giám đốc nói riêng và đội ngũ cán bộ chủ chốt trong từng doanh nghiệp nói chung.
- Mô hình và cơ chế lãnh đạo của Đảng trong DNNN còn nhiều bất cập, nên chưa phát huy được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của thủ trưởng doanh nghiệp, mặt khác DNNN còn là cái "túi" chứa đựng nhiều loại lao động. Đây là nỗi khổ tâm của không ít giám đốc doanh nghiệp muốn cải tổ, cải cách. Đổi mới, sắp xếp lại nhân sự trong doanh nghiệp.
Từ sự phân tích nhiều mặt như trên, càng cho thấy việc thua lỗ kém hiệu quả thậm chí phá sản của một bộ phận DNNN không phải do thuộc tính, bản chất của DNNN mà chủ yếu do con người: từ khâu hoạch định thể chế, chính sách cơ chế tổ chức bộ máy quản lý cho đến việc quản trị, điều hành trong từng doanh nghiệp cũng như cả hệ thống.
3. Những vấn đề về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tại hội Nghị trung ương đã dành phần lớn thời gian để thoả thuận và thông qua Nghị quyết " tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước ". Đây là vấn đề rất lớn, rất cơ bản trong đường lối kinh tế của Đảng. Tổng kết 15 năm đổi mới và xác
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status