Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay lý luận và thực tiễn - pdf 19

Download miễn phí Tiểu luận Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay lý luận và thực tiễn



Ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đã sớm có chủ trương chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Thể hiện cụ thể như sau:
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VII) tháng 11/1991 đã chỉ rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp”.
- Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (Khoá VII) của BCH TW Đảng tháng 1/1994 đã nêu mục đích, hình thức và mức độ sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá là: “Để thu hút thêm vốn, tạo nên động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả cần thực hiện các hình thức cổ phần hoá có mức độ thích hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh, trong đó sở hữu Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối”.
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

ịnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà trong đó doanh nghiệp nhà nước có vị trí quan trọng. Tồn tại với tư cách là nhân tố trọng yếu trong vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đang đối mặt với mâu thuẫn giữa thực trạng hoạt độn với sứ mạng được giao phó. ở Việt Nam, doanh nghiệp nhà nước trước đây được gọi là xí nghiệp quốc doanh đã phát triển với quy mố và số lượng lớn trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và được xác định là thành phần kinh tế chủ đạo. Doanh nghiệp nhà nước đã đóng vàI trò quan trọng trong việc củng cố nền tảng kinh tế, xã hội của nước ta, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Có thể hệ thống hoá ý nghĩa “vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước” theo quan đIểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước phải chi phối được sự phát triển trong các lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ổn định của đất nước.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước phải là động lức cho sự phát triển của các doanh nghiệp khác thông qua hiệu quả hoạt động cao trên nền của công nghệ sản xuất hiện đạI và hệ thống quản lý tiên tiến.
Thứ ba, doanh nghiệp nhà nước là nguồn lực vật chất chủ yếu của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước phải tạo ra được sự đóng góp quyết định cho ngân sách nhà nước. Dựa vào những đóng góp chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước và thông qua việc sở hữu các doanh nghiệp, Nhà nước xã hội chủ nghĩa có trong tay tiềm lực kinh tế vững mạnh để thực hiện những nhiệm vụ của mình.
Thứ tư, doanh nghiệp nhà nước là mẫu mực trong việc giải quyết các chính sách xã hội như việc làm, trợ cấp xã hội. Trong thực tiễn của đất nước ta trước đây, doanh nghiệp nhà đóng vai trò chủ đạo quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Nhiều chính sách xã hội được thực hiện tốt thông qua các doanh nghiệp nhà nước. Đây là vai trò cần phát huy của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hiện nay.
2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là như thế nào?
2.1. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nứơc là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông, tức là Nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tàI sản của doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không chỉ là quá trình chuyển quyền sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn có cả hình thức doanh nghiệp nhà nước thu hút thêm vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần.
2.2. Thực chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Để xác định thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, trước hết phải phân biệt hai quá trình: Cổ phần hoá và Tư nhân hoá.
Trong đời sống kinh tế ở nhiều nước đã diễn ra quá trình tăng cường vai trò của khu vực tư nhân bằng cách giảm thiểu khu vực nhà nước thông qua chương trình tư nhân hoá. Ví dụ tư nhân hoá ở nước Anh, tư nhân hoá các nước đang phát triển, tư nhân hoá ở các nước có nền kinh tế chuyển đổi như ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu... Tại các nước này, tư nhân hoá diễn ra theo ba mức độ : “ 1) Thay đổi một phần chế độ sở hữu của xí nghiệp, chuyển một phần từ sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân; 2) Tự do hóa việc tham gia những hoạt động mà trước đây chỉ dành cho khu vực nhà nước; 3) Ủy quyền kinh doanh hay cho phép tư nhân ký hợp đồng thực hiện những dịch vụ công cộng hay cho khu vực tư nhân thuê các tài sản công cộng”.
Cũng tại các nước này, tư nhân hoá còn được hiểu là thị trường hoá, “Nới lỏng hay bỏ bớt các hạn chế pháp lý dưới nhiều hình thức khác nhau đối với sự cạnh tranh chống lại các xí nghiệp công cộng”, nó “bao gồm mọi chính sách để khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào việc cung cấp dịch vụ công cộng và hạ tầng cơ sở và có khuynh hướng loại trừ hay thay đổi vị trí độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước”.
Liên hiệp quốc cũng đưa ra quan niệm: “Tư nhân hoá là sự biến đổi tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước theo hướng ưu tiên thị trường”. Quan niệm này cho thấy toàn bộ những chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị cơ sở, dành cho thị trường vai trò điều tiết đáng kể qua tự do hoá giá cả. Thực chất quan niệm nêu trên mong muốn giảm bớt vai trò của Nhà nước và mở rộng khu vực tư nhân, đồng thời làm cho các doanh nghiệp nhà nước phải chịu sức ép lớn hơn của thị trường. Việc giảm bớt vai trò của Nhà nước có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có biện pháp bán cổ phần cho công chúng hay còn gọi là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ đó một số nguời cho rằng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một nội dung của tư nhân hoá.
Song, nếu hiểu dưới góc độ tính chất của các quan hệ kinh tế (quan hệ sở hữu về tài sản, tiền vốn) thì không thể cho rằng cổ phần hoá là tư nhân hoá.
Thứ nhất: Thực tế ở nhiều nước đã diễn ra quá trình doanh nghiệp tư nhân thuần tuý hay doanh nghiệp của một nhóm chủ thông qua phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn của các chủ sở hữu khác ngoài xã hội để chuyển thành công ty cổ phần. Nhưng sau khi trở thành công ty cổ phần, chủ sở hữu doanh nghiệp không còn là cá nhân riêng lẻ nữa mà là tập thể các cổ đông. Quá trình này cũng diễn ra trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước (mà trực tiếp là một cơ quan có thẩm quyền được Nhà nước giao) dựa trên cơ sở giá trị thực tế của doanh nghiệp cần được cổ phần hoá xác định số lượng cổ phần, giá trị mỗi cổ phần, các loại cổ phiếu, cách phát hành phiếu, sau đó bán cổ phiếu cho các tổ chức kinh tế, xã hội và công chúng, chuyển doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu là công ty cổ phần.
Quá trình chuyển hình thức doanh nghiệp một chủ hay một vài chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, chuyển doanh nghiệp từ dạng chưa phải là công ty cổ phần thành công ty cổ phần chính là quá trình tiến hành cổ phần hoá. Qúa trình này không chỉ diễn ra tại các doanh nghiệp nhà nước, mà còn diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh. Như vậy cổ phần hoá là quá trình thực hiện xã hội hoá sở hữu tại doanh nghiệp. Đây thực chất là cổ phần hoá nói chung.
Thứ hai: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước cũng mang thực chất của cổ phần hoá nói chung nêu trên. Để làm rõ hơn nữa thực chất của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, cần theo dõi cách thức mà các doanh nghiệp nhà nước chuyển hành công ty cổ phần như thế nào? Thực tế ở các nước, doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần thông qua một trong hai cách t...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status