Tác động của NQ- 09/2000/ NQ- CP tới công ty Seaprodex - pdf 19

Download miễn phí Đề tài Tác động của NQ- 09/2000/ NQ- CP tới công ty Seaprodex



MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
I. Hoàn cảnh ra đời của nghị quyết 09 3
1. Hoạt động của Công ty Seaprodex trước khi có nghị quyết 3
2. Một số nội dung chủ yếu của nghị quyết 7
II. Đánh giá tác động của nghị quyết đối với hoạt động của Công ty Seaprodex 9
1. Tác động của nghị quyết đối với ngành thuỷ sản Việt Nam 9
2. Hoạt động của Công ty Seaprodex sau khi có nghị quyết 14
III. Kinh nghiệm của Công ty Seaprodex 18
IV. Một số bài học về thực tiễn hoạt động của Công ty Seaprodex 20
KẾT LUẬN 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
 
 



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


Tuy là doanh nghiệp có tiềm lực mạnh trong ngành thuỷ sản Việt Nam nhưng trong thời gian qua công ty gặp không ít khó khăn, cũng như đa số các công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam. Đó là công nghệ chế biến còn lạc hậu và chưa phù hợp với nguồn nguyên liệu sẵn có ở Việt Nam; nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu không ổn định và chất lượng nguyên liệu chưa đảm bảo; hoạt động marketing đặc biệt là hoạt động xúc tiến thương mại còn yếu kém.
Đối với công ty Seaprodex, đa số các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh của công ty đều được xây dựng từ trước năm 1975. Những năm gần đây, tuy được đầu tư nâng cấp nhưng chưa đồng bộ. Vì vậy, hầu hết năng lực chế biến của các nhà máy chỉ đạt 65- 70 % công suất thiết kế, bởi ngành công nghiệp thuỷ sản mang đậm tính chất mùa vụ và chưa được đầu tư đổi mới công nghệ kịp thời. Từ năm 1990 đến 1998 công ty đã đầu tư 4,7 triệu USD cho các cơ sở chế biến thuỷ sản, trong đó vốn tín dụng 700.000USD còn lại là vốn tự có. Kèm theo đó công ty còn lập phương án quy hoạch, nâng cấp hàng thuỷ sản xuất khẩu của công ty Seaprodex Minh Hải tại Bạc Liêu, Seaprodex miền trung tại Đà Nẵng, Seaprodex Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, với tổng nhu cầu đầu tư cho các công trình trên dự kiến là 250 tỷ đồng. Ngoài ra, để khắc phục những khó khăn trên Seaprodex Việt Nam đã xác định 2 vấn đề cơ bản là xây dựng định hướng chiến lược và ổn định các doanh nghiệp thành viên. Cùng với việc đầu tư nâng cấp các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh xuất khẩu, công ty còn xác định lợi thế của từng doanh nghiệp thành viên, xác định các vùng sản xuất trọng điểm, doanh nghiệp trọng điểm để xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên và các biện pháp thực hiện nhiệm vụ. Ví dụ, năm 1999 công ty đã xác định khu vực miền Tây có lợi thế phát triển sản xuất, trong đó lấy Seaprodex Minh Hải là trọng điểm sản xuất và xuất khẩu. Việc xác định doanh nghiệp trọng điểm đã tạo nên động lực mạnh thúc đẩy doanh nghiệp này phát triển; ở Seaprodex Minh Hải đã tăng từ 18 triệu USD năm 1998 lên 31 triệu USD năm 2000, chiếm tỷ trọng giá trị chế biến cao nhất ( 25,76%) trong toàn công ty. Có thể nói định hướng của công ty Seaprodex là tiền đề, là động lực mạnh mẽ để mỗi doanh nghiệp thành viên tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu. Bên cạnh việc chủ động xây dựng định hướng đúng là việc ổn định các doanh nghiệp thành viên để củng cố thực lực mỗi thành viên và tạo sức mạnh của toàn công ty. Doanh nghiệp phấn đấu không phải chỉ là để năm sau cao hơn năm trước, mà còn để xứng đáng với uy tín công ty Seaprodex Việt Nam.
Ngoài ra, nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu không ổn định và chất lượng nguyên liệu chưa đảm bảo cũng là khó khăn cho toàn bộ các công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung cũng như công ty Seaprodex nói riêng. Trên thực tế, theo báo cáo của Bộ Thương mại gần như toàn bộ các nhà máy chế biến thuỷ sản của nước ta đều dựa vào nguồn nguyên liệu khai thác tự nhiên, lệ thuộc vào thiên nhiên do nuôi trồng chưa phát triển và trở thành nguồn cung cấp ổn định. Phụ thuộc vào thiên nhiên và tính chất mùa vụ của các loài hải sản nhiệt đới cùng với điều kiện kết cấu hạ tầng cho việc khai thác ( như đội tàu và kỹ thuật viên, hệ thống cảng và chợ chuyên dụng…) chưa phát triển tương ứng đã làm cho chất lượng nguyên liệu không cao và không ổn định. Đó là do Việt Nam hiện nay, khai thác thuỷ hải sản tự nhiên chủ yếu được thực hiện bằng đội tầu có kích cỡ nhỏ của ngư dân, rất khó có điều kiện áp dụng công nghệ mới hiện đại trong việc bảo quản sau thu hoạch (như các khoang sơ chế tại tàu, các hầm lạnh cỡ lớn đảm bảo chất lượng nguyên liệu cho các chuyến đánh bắt xa bờ dài ngày).
Đối với các công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam thì đó vẫn chưa phải là khó khăn cuối cùng, mà các công ty của Việt Nam còn yếu kém trong khâu marketing đặc biệt là hoạt động xúc tiến thương mại. Trong điều kiện hiện nay, để có thể thành công trong kinh doanh, các doanh nghiệp cần tạo ra sản phẩm tốt giá thành hạ, các dịch vụ cung cấp sản phẩm đến khách hàng thuận tiện đồng thời họ cũng phải đặc biệt quan tâm đến hoạt động xúc tiến thương mại. Bởi vì nếu sản phẩm ít được khách hàng biết đến, không được phân phối hợp lý, không hiểu rõ về đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp rất khó giành vị thế thắng cuộc trong thương trường. Thực tế cho thấy, các hoạt động như nghiên cứu thị trường, quảng cáo… kể cả thị trường nội địa hầu như chưa được các doanh nghiệp sản xuất hàng thuỷ sản Việt Nam lưu tâm thực hiện. Việc tiêu thụ sản phẩm chủ yếu dựa trên các quan hệ truyền thống, chờ khách hàng tìm đến. Thêm vào đó, việc hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước( Bộ Thuỷ sản, Bộ Thương mại…) trong cung cấp thông tin thị trường, tổ chức hội chợ, giới thiệu sản phẩm Việt Nam đến khách hàng thông qua các văn phòng thay mặt ở nước ngoài… chưa được thực hiện một cách thường xuyên.
Như vậy, trong hoàn cảnh các công ty xuât nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và công ty Seaprodex nói riêng điều gặp những khó khăn như trên, nên chăng các cơ quan quản lý Nhà nước cần đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm tháo gỡ những khó khăn trên. Trước tình hình đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2000/ NQ- CP ngày 15/6/2000 về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nhằm giải quyết một số vấn đề khó khăn đối với ngành thuỷ sản Việt Nam. Kèm theo đó Bộ Thuỷ sản cũng ra thông tư số 05/2000/ TT- BTS ngày 3/11/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị quyết trên.
2.Một số nội dung chính của Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thuỷ sản là ngành sản xuất sản phẩm đạm động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường trong nước và xuất khẩu lớn, có khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của ngành nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng thủy sản đạt 3- 3,5 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng kim ngạch xuất khẩu vươn lên hàng đầu trong khu vực châu á. Chính phủ đã đưa ra một số chủ trương, chính sách để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm thủy sản, thúc đẩy sản xuất phát triển như sau:
a.ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học- công nghệ mới vào sản xuất thuỷ sản.
Về nuôi trồng thuỷ sản, điều tra nghiên cứu, lập kế hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên các loại hình mặt nước thuộc các vùng nước mặn, lợ và ngọt. Các Viện nghiên cứu nuôi trông thuỷ sản I, II và Trung tâm khuyến ngư các tỉnh phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và đào tạo ngoài ngành liên quan tổ chức để chuyển giao các công nghệ sinh học cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sản xuất thuỷ sản nhằm khai thác sử dụng có hiệu quả các loại đất, mặt nước.
Về khai thác thuỷ sản, nghiên cứu điều tra xác định nguồn lợi hải sản vùng xa bờ, các vùng hải sản trọng điểm, phân bố tập trung, t...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status