Chính sách của nhà nước về thu hút vốn cho đầu tư phát triển - pdf 21

Download miễn phí Đề tài Chính sách của nhà nước về thu hút vốn cho đầu tư phát triển



 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đi liền với chuyển giao vốn, công nghệ, thị trường và các kinh nghiệm quản lý. Đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động; chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, trong thời gian từ 1991-2000, vốn FDI đã chiếm hkoảng 24,11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó thời kỳ 1991-1995 chiếm 24,44% và thời kỳ 1996-2000 chiếm khoảng 23,92%. Nguồn vốn FDI chủ yếu bao gồm tièn mặt (76,7%), phần còn lại bao gồm thiết bị (15,4%) và các dịch vụ khác.Nguồn vốn đã được thực hiện chiếm khoảng 39% tổng số vốn đăng ký. Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp ngày càng phát triển, trở thành bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào CNN-HĐH đất nước.



Để tải bản Đầy Đủ của tài liệu, xin Trả lời bài viết này, Mods sẽ gửi Link download cho bạn sớm nhất qua hòm tin nhắn.
Ai cần download tài liệu gì mà không tìm thấy ở đây, thì đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:

CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ THU HÚT VỐN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay ở nước ta cần đến một lượng vốn lớn.
Vốn cho phát triển kinh tế- xã hội luôn là vấn đề quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới ở nước ta. Đương nhiên để duy trì những thành quả đã đạt được của nền kinh tế nhờ mấy năm đổi mới vừa qua, giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, tránh cho đất nước rơi vào tình trạng lạc “tụt hậu” so với nhiều nước láng giềng trong khu vực và trên thế giới. Trong giai đoạn hiện nay nước ta đang tìm mọi cách khơi dậy mọi nguồn vốn trong nước từ bản thân nhân dân và việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã có tại các cơ sở quốc doanh. Nguồn nước ngoài từ ODA, NGO và từ đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Trong giai đoạn vừa qua, nước ta đã có nhiều những biện pháp nhằm huy động cả nguồn vốn trong và ngoài nước, cụ thể là:
I . HUY ĐỘNG NGUỒN VỐN TRONG NƯỚC
1. Tiết kiệm chính phủ:
_ Vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước (NSNN): Hiện nay chủ yếu tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, hỗ trợ cho nguồn vốn tín dụng Nhà nước và Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia…Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn NSNN chủ yếu là các dự án giao thông, thuỷ lợi, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, bảo tồn thiên nhiên, các công trình văn hoá, xã hội, giáo dục y tế, phúc lợi công cộng, nghiên cứu khoa học, quốc phòng an ninh.
Để tăng cường khả năng huy động vốn từ NSNN, Chính phủ đã phát hành trái phiếu đầu tư phát triển. Trái phiếu đầu tư phát triển của Chính phủ góp phần huy động các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư. Mặt khác, nguồn vốn đầu tư phát triển này sẽ góp phần làm sôi động lại quá trình đầu tư, tăng “cầu”, tạo cơ hội đầu tư mới cho các thành phần kinh tế khác, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế. Hơn nữa, nguồn vốn này góp phần giải quyết, khắc phục phần nào hậu quả chính sách đầu tư trong những năm qua (đầu tư dàn trải, tràn lan, hiệu quả thấp, các công trình dở dang nhiều…).
Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình 13,1% GDP trong thời kỳ 1986-1990 lên 20,5% GDP thời kỳ 1991-1995 và hiện nay khoảng 22% GDP. Thu ngân sách nhà nước có sự chuyển biến tích cực, nguồn thu trong nước tăng nhanh và chiếm phần chính trong tổng thu ngân sách nhà nước. Cụ thể là năm 1991 thu trong nước chiếm 76,7% thu ngân sách nhà nước đế 1998 chiếm 97,2%. Như vậy năm 1991 thu ngân sách nhà nước 13,5% GDP thì năm 1998 bằng 20% GDP. Chi ngân sách cả năm 1998 giảm còn 21,5% thấp hơn năm 1997. Do đó, việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể cho chi đầu tư phát triển.
_ Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Giai đoạn 1991-1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là 14.279 tỷ đồng mới chiếm 6,13% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 1996-2000 đã là 62.210 tỷ đồng chiếm 15,57% và riêng năm 2000, nguồn vốn này đã đạt đến 19,92% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong 5 năm 1991-1995 vốn tín dụng đầu tư phát triển không tăng đáng kể, dao động trong giá trị trung bình 2.854 tỷ đồng. Tuy nhiên, chuyển sang giai đoạn 1996-2000 vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước đã có bước tăng trưởng đáng kể, năm 1996 là 7.640 tỷ đồng và đến năm 2000 con số này đã là 17.620 tỷ đồng. Vốn trung bình giai đoạn 1996-2000 là 12.442 tỷ đồng, tăng đến 4,4 lần so với thời kỳ 1991-1996.
Cho đến nay, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đầu tư vào ngành công nghiệp trên 60% tổng vốn đầu tư (gần 55% số dự án) đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế.
_Vốn đầu tư từ Doanh nghiệp nhà nước (DNNN): Vốn đầu tư từ DNNN có xu hướng tăng dần cả về tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội cũng như quy mô. Lượng vốn bình quân thời kỳ 1991-1995 là 5.064 tỷ đồng chiếm 10,89% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giá trị này thời kỳ 1996-2000 là 12.906 tỷ đồng chiếm 16,15% tổng vốn toàn xã hội. Trong giai đoạn 1991-1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp nhà nước là 11,7% gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Từ năm 1998 trở lại đây (2001), tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước chậm lại nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, đến năm 2003 nguồn vốn này đang có xu hướng gia tăng lại. Nguồn vốn này bao gồm khấu hao cơ bản để lại, một phần lợi nhuận sau thuế để tích luỹ. Việc quản lý nguồn vốn này sẽ dần được mở rộng và ít nhất là trong việc khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới các thiết bị, công nghệ, đầu tư chiều sâu. Việc đánh giá lại tài sản trong các doanh nghiệp để trích khấu hao cơ bản phải đảm bảo nguyên tắc tài sản khấu hao đúng, trong khuôn khổ “khung” đã được Bộ Tài chính quy định. Nguồn vốn khấu hao cơ bản phải được quản lý thống nhất theo hướng đảm bảo khấu hao nhanh, đảm bảo khấu hao đủ nguồn vốn để tái đầu tư khi tài sản đã được khấu hao hết. Việc phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp phải trên cơ sở nguyên tắc bảo toàn vốn, tránh hiện tượng “lãi giả khấu lỗ thật”, ăn vào vốn và cuối cùng, nguồn vốn khấu hao cơ bản không đủ để tái đầu tư giản đơn, phục chế tài sản ban đầu. Cần có chính sách khuyến khích quá trình tái đầu tư từ lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đẩy mạnh cổ phần hoá, cơ cấu lại DNNN sẽ giúp các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn nhàn rỗi, hay đang sử dụng kém hiệu quả trong xã hội. Nhà nước chỉ nên giữ lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quan trọng, then chốt, quyết định, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
2. Tiết kiệm của doanh nghiệp
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần trong cả nước có bước phát triển khá. Nhờ có quy mô lớn, sản xuất ổn định nên vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 9-10%/năm. Do đó, đã có những đóng góp không nhỏ trong việc huy động các khoản tiết kiệm từ hoạt động sản xuất kinh doanh cho phát triển kinh tế. Khối tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã tăng từ 5-6%; các tiểu chủ, hộ cá thể chiếm tỷ trọng hơn 70%, tăng 4-5%/năm trong 2 năm 1997 và 1998.
Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, vốn dư thừa của doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tới 1-2 tỷ USD dưới dạng tiền mặt (nội và ngoại tệ ngoài hệ thống ngân hàng), nhưng, chủ yếu là dưới dạng bất động sản không hay ít có khả năng sử dụng vào kinh doanh (do giá bất động sản ...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status