Thanh toán điện tử và khả năng ứng dụng của thanh toán điện tử vào Việt Nam - pdf 23

Download miễn phí Đề tài Thanh toán điện tử và khả năng ứng dụng của thanh toán điện tử vào Việt Nam



Thương mại điện tử (TMĐT) chỉ có thể thực hiện thực tế khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính(financial payment) phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động( trong đó thẻ khôn minh có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh doanh bán lẻ); khi chưa có hệ thống này thì TMĐT chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hay bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy hiệu của TMĐT bị giảm thấp và có thể không đủ bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra. Hệ thống thanh toán tài chính đi liền với việc mã hoá toàn bộ hàng hoá, hay”đánh số sản phẩm” (product numbering) là vấn đề không chỉ có tính quốc gia mà có tính quốc tế, trên cơ sở của các chuẩn và định chế EAN international và Uniform Code Council, thể hiện dưới dạng các vạch, gọi là mã vạch (bar-code); theo đó tất cả các sản phẩm hành hoá và dịch vụ đều được mã hoá bằng một số 13 con số, và tất cả các công ty đều có địa chỉ của mình bằng một mã có từ 100 đến 100000 con số( mã vạch là hệ thống mã dùng các vạch đen, trắng, màu, có đọ rộng khác nhau để biểu diễn con số; một máy quét dùng tế bào quang điện sẽ nhận dạng các vạch này biến đổi thành con số rồi tự động đưa vào máy tính để tính toán tự động , trước đây mã vạch được đọc theo một chiều, nay đã xuất hiện loại mã vạch mới cho phép đọc nhiều chiều và chứa đựng nhiều thông tin hơn). Việc hội nhập vào và thiết lập toàn bộ hệ thống mã sản phẩm và mã công ty( gọi chung là mã hoá thương mại; commercial coding) cho một nền kinh tế( đặc biệt là nền kinh tế của nước đang phát triển) nói chung cũng không đơn giản.





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


, thẻ nhựa..); khả năng tích hợp nhiều thao tác trong một bước in( vừa in thẻ hai mặt, vừa ép nhựa); khả năng kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình in thẻ ở các trung tâm in ấn tập trung.
-Công nghệ mã hoá dữ liệu: dữ liệu( chữ số, ảnh , vân tay) có thể được mã hoá theo nhiều cách khác nhau : dùng dải băng từ; dùng mã vạch; dùng chíp điện tử; dùng các dòng chữ để có thể nhận dạng bằng máy.
-Công nghệ nhận biết tự động và xác nhận chủ nhân.
-Công nghệ CSDL tiên tiến có khả năng hỗ trợ dữ liệu lớn và dữ liệu ảnh với những đòi hỏi cao về bảo mật, an toàn dữ liệu, về chức năng hoạt động và khả năng mở rộng.
-Công nghệ mạng truyền thông : Trong các ứng dụng quy mô lớn, việc truyền dữ liệu giữa các văn phòng đăng ký cấp thẻ ở địa phương tới các trung tâm khu vực ( cấp tỉnh/ cấp miền) và sau đó về trung tâm ở trung ương sẽ là vấn đề lớn. Khi đưa thẻ vào sử dụng, việc liên lạc để đối chiếu với CSDL trung tâm theo cơ chế khách/ chủ là rất quan trọng. Ngoài kỹ thuật và quy trình truyền dữ liệu trên mạng diện rộng, còn có một số vấn đề nữa cần được nghiên cứu là vấn đề mã hoá, bảo mật dữ liệu trên đường truyền.
Công nghệ thẻ ngày càng được ứng dụng rộng rãi nhờ các ưu điểm : nhỏ , gọn, chứa thông tin cô đọng, sử dụng tiện lợi: bền, sử dụng nhiều lần: để tự động hoá khâu nhận biết và xác nhận chủ nhân với mức độ tịn cậy cao, nhờ đó có thể sử lí nhanh chóng các giao dịch. Việc ứng dụng công nghệ thẻ ở Việt nam hiện nay nhìn chung mới dừng ở sơ khai , ứng dụng các loại thẻ ra vào có dải bănng từ cho một số cơ quan, xí nghiệp. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng đã có những bước đi có tính đột phá trong việc ứng dụng công nghệ thẻ tự động- thẻ thanh toán điện tử- thẻ tín dụng .
Một số quy định chung cho việc phát hành, sử dụng , bảo quản và thanh toán thẻ .
Đối với ngân hàng phát hành thẻ:tên chủ thẻ: tên NHPHT; số thẻ; nhãn hiệu thương mại thời hạn sử dụng thẻ...là yếu tố phải hội đủ trên thẻ. Trong quy chế cũng quy định các NHPHT có quyền quy định thêm các yếu tố khác không trái với pháp luật hiện hành. Điều này có lẽ sẽ liên quan đến việc mở rộng hệ thống thông tin trên thẻ khi công nghệ thẻ phát triển thẻ sau này, hay giúp các NHPHT có phương pháp riêng để quản lí . Thẻ tín dụng hay các cách tín dụng khác đều phải tuân theo các quy định về tín dụng hiện hành. Do đó trong quy chế cũng quy định cho NHPHT khi cấp thẻ tín dụng, phải xem xét và cấp cho chủ thẻ một hạn mức tín dụng nhát định. Hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng cho một khách hàng nằm trong tổng mức cho vay chung đối với khách hàng đó và tổng mức cho vay chung này không đưọc vượt quá giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng với một khách hàng theo quy định của pháp luật. NHPHT phải quy định thời hạn trả nợ , lãi suất, cũng như lãi suất dư nợ tín dụng thẻ chưa được thanh toán đúng hạn và mức trả nợ tối thiểu tính trên dư nợ tín dụng thẻ cho các chủ thẻ tín dụng. Các quy định này không trái với các quy định hiện hành của ngân hàng nhà nước về lãi suất cho vay. Bên cạnh đó quy định nêu rõ thẻ chỉ được cấp cho cá nhân, không cấp thẻ cho tập thể và dư nợ tín dụng thẻ của NHPHT được tính vào tổng mức dư nợ cho vay chung của mình .
Đối với chủ thẻ : Quy chế quy dịnh,chủ thẻ không được chi vượt hạn mức tín dụng đã được NHPHT chấp thuận trong hợp đồng. Trong trường hợp muốn sư dụng vượt hạn mức tín dụng phải thoả thuận trong hợp đồng với NHPHT. Đồng thời phải thanh toán đầy đủ đúng hạn mức trả nợ tối thiểu được NHPHT quy định.
Phạm vi sử dụng và đồng tiền thanh toán trên thẻ: theo quy chế ,các loại thẻ hoạt động trên lãnh thổ Việt nam chủ yếu bằng đồng Việt nam. Trường hợp đậc biệt ( thẻ quốc tế ) có thể giao dịch ngoại tệ nhưng chỉ ở các cơ sở đựợc pheps giao dịch ngoại tệ .Việc rút tiền mặt bằng ngoại tệ chỉ được thực hiện ở các NHTTT , NHPHT được phép giao dịch ngoại tệ và hạn mức theo quy định về quản lí ngoại hối của nhà nước Việt nam .Quy chế cũng quy định cho việc thanh toán giữa các bên liên quan bầng đồng Việt nam.
Những điều kiên của ngân hàng mở dịch vụ phát hành thẻ: Các Ngân hàng có thể thực hiện việc phát hành thẻ chỉ khi nào được nhà nước Việt nam cho phép .
Nghĩa là ngân hàng đó phải hội tụ đủ các điều kiện về năng lực tài chính ,không vi phạm pháp luật ; đảm bảo hệ thống trang thiết bị cần thiết phù hợp với tiêu chuẩn và đảm bảo an toàn cho hoạt động phát hành , thanh toán thẻ .Có đội ngũ cán bộ đủ năng lực chuyên môn để quản lí ,vận hành, thanh toán thẻ theo thông lệ quốc tể ; chứng minh được sự cần thiết, hiệu quả kinh doanh và tính khả thi của việc đầu tư .Để phát hành thẻ quốc tế, ngoài các tiêu chí nêu trên, ngân hàng xin phát hành thẻ quốc tế còn phải được ngân hàng nhà nước cấp giấy phép hoạt động ngoại hối và cho phép thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế; đồng thời phải là hội viên chính thức hay liên kết của tổ chức thẻ quốc tế. Có lẽ chứng minh được hiệu quả kinh doanh trong giai đoạn hiện nay là một trở ngại rất lớn cho các ngân hàng mong muốn mở dịch vụ phát hành thẻ. Bởi lẽ thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán, tài khoản cá nhân còn ít, cơ sở hạ tầng còn sơ khai.. thì việc mở loại dịch vụ này chắc chắn sẽ không thể có ngay hiệu quả.
Những điều kiện của người được cấp thẻ: người xin được cấp thẻ chỉ cần hai điều kiện là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và là chủ tài khoản tiền gửi cá nhân mở tại NHPHT hay đáp ứng các điều kiện khác do NHPHT quy định. Riêng với chủ thẻ phụ , phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và được chủ thẻ chính cam kết đảm bảo thanh toán toàn bộ các khoản tiền thanh toán ,lãi và chi phí phát sinh khi sử dụng thẻ.
II Hệ thống thanh toán tài chính tự động.
Mã hoá thương mại.
Thương mại điện tử (TMĐT) chỉ có thể thực hiện thực tế khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính(financial payment) phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động( trong đó thẻ khôn minh có tầm quan trọng đặc biệt đối với kinh doanh bán lẻ); khi chưa có hệ thống này thì TMĐT chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, buôn bán vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hay bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy hiệu của TMĐT bị giảm thấp và có thể không đủ bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra. Hệ thống thanh toán tài chính đi liền với việc mã hoá toàn bộ hàng hoá, hay”đánh số sản phẩm” (product numbering) là vấn đề không chỉ có tính quốc gia mà có tính quốc tế, trên cơ sở của các chuẩn và định chế EAN international và Uniform Code Council, thể hiện dưới dạng các vạch, gọi là mã vạch (bar-code); theo đó tất cả các sản phẩm hành hoá và dịch vụ đều được mã hoá bằng một số 13 con số, và tất cả các công ty đều có địa chỉ của mình bằng một mã có từ 100 đến 100000 con số( mã vạch là hệ thống mã dùng các vạch đen, trắng, màu, có đọ rộng khác nhau để b...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status