Phân tích kĩ thuật và ứng dụng một số chỉ báo để tính toán đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam - pdf 23

Download miễn phí Chuyên đề Phân tích kĩ thuật và ứng dụng một số chỉ báo để tính toán đối với một số cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam



Công ty cổ phần bông Bạch Tuyết có tên viết tắt là COBOVINA Bạch Tuyết phát hành chứng khoán mã BBT. Công ty hoạt động trong lĩnh vực đồ dùng cá nhân, cụ thể là bông, băng y tế; băng vệ sinh phụ nữ, và các sản phẩm khác từ bông băng. Theo số liệu điều tra từ công ty, các sản phẩm y tế của công ty chiếm tới 90% tổng thị phần toàn quốc. Các sản phẩm băng vệ sinh của công ty rất nổi tiếng và phổ biến trên thị trường phía Nam (thị phần khu vực này tới 50-55%). Tuy nhiên sản phẩm của công ty còn chưa quen thuộc với người tiêu dung của các tỉnh thành phía Bắc (thị phần ở đây chỉ khoảng 5%). Vì vậy thị phần của công ty trên toàn quốc chỉ ở mức 30%.





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


EMA 12 và 26 ngày. Tuy nhiên, chúng ta có thể sử dụng bất cứ sự kết hợp nào giữa các đường MA. Tập hợp các đường MA được sử dụng trong MACD có thể phù hợp cho từng chứng khoán riêng lẻ. Đối với đồ thị từng tuần, tập hợp các MA nhanh hơn có thể là fù hợp. Đối với các cổ phiếu không ổn định, những đường MA chậm hơn có thể giúp ích cho việc làm trơn số liệu. Lưu ý rằng mỗi cá nhân cần hiệu chỉnh MACD cho phù hợp với cách kinh doanh , mục tiêu và khả năng chịu rủi ro của mình.
2.1.4. Hạn chế cuả MACD
Một trong những ưu điểm và cũng là mặt hạn chế của MACD đó là các MA hay là giản đơn, hay hàm mũ hay có trọng số đều là các chỉ báo có độ trễ. Mặc dù MACD thể hiện sự chênh lệch giữa 2 MA, có thể còn có một số yếu tố trễ trong chính chỉ báo đó. Điều này thường đúng với các đồ thị theo tuần hơn đồ thị theo ngày.Một cách giải quyết vấn đề này là sử dụng biểu đồ MACD.
MACD không fải là một chỉ báo đặc biệt tốt để phân biệt giữa bán siêu (oversold) và mua siêu (overbought). Mặc dù nó có thể nhận biết những mức độ nào thể hiện sự bán siêu và mua siêu, MACD không có bất cứ giới hạn trên hay dưói nào ràng buộc sự biến động của nó. MACD có thể tiếp tục mở rộng vượt quá cực điểm trong quá khứ.
MACD tính toán sai lệch tuyệt đối giữa 2 trung bình trượt và không thể hiện sai lệch tương đối. MACD được tính toán bằng cách lấy một trung bình trượt trừ đi cái còn lại. Khi một chứng khoán tăng giá, chênh lệch (cả âm và dương) giữa 2 trung bình trượt được dự tính sẽ tăng. Điều này gây khó khăn cho việc so sánh các MACD trong những chu kì thời gian dài, đặc biệt là các chứng khoán biến động theo hàm mũ.
Có một lựa chọn đó là sử dụng dao động giá, thể hiện chênh lệch tương đối giữa 2 trung bình trượt:
(EMA 12 ngày –EMA 26 ngày )/EMA 26 ngày
Kết quả chênh lệch tương đối có thể được so sánh trong chuỗi thời gian dài hơn. Đối với các thời kì ngắn hạn, MACD và phương pháp dao động giá về cơ bản là tương tự nhau. Hình dáng đường,sự fân kì các điểm cắt giữa các đường trung bình trượt và các điểm cắt đường hướng tâm đối với MACD và phương pháp dao động giá là hoàn toàn đồng nhất.
2.1.5. Những ý kiến tán thành và phê phán MACD
Khi Appel phát triển mô hình MACD, có hàng trăm chỉ báo phân tích kĩ thuật mới được giới thiệu. Trong khi rất nhiều chỉ báo kĩ thuật ra đời và bị loại bỏ, MACD vẫn tồn tại với thời gian. Các tư tưởng cơ bản phía sau cách sử dụng của nó rất rõ ràng, và cách xây dựng của nó rất đơn giản, nó vẫn là một trong những chỉ báo đáng tin cậy. Tính hiệu quả của MACD sẽ rất khác nhau với rất nhiều chứng khoán và thị trường khác nhau. Tuỳ theo từng chứng khoán và thị trường khác nhau cần lựa chọn độ trễ của MA cho thích hợp. Như đối với tất cả các chỉ báo, MACD không phải là không thể sai được và nên được sử dụng cùng với các công cụ phân tích kĩ thuật khác.
2.1.6. MACD- biêủ đồ (MACD-Histogram)
Năm 1986, Thomas Aspray đã phát triển MACD-biểu đồ (MACD-H). Aspray lưu ý rằng trễ của MACD đôi khi bỏ lỡ những biến động của chứng khoán, đặc biệt là được ứng dụng trong đồ thị theo tuần. Ông bắt đầu thử nghiệm bằng cách thay đổi các trung bình trượt và nhận thấy các trung bình trượt ngắn hạn có thể đưa ra các tín hiệu nhanh hơn.Tuy nhiên ông đang tìm kiếm các công cụ để đoán các điểm giao cắt của MACD. Một trong những đáp án mà ông đã tìm ra đó là MACD-H.
2.1.6.1. Định nghĩa và cách xây dựng
MACD-H thể hiện chênh lệch giữa MACD và đường tín hiệu của nó-EMA 9 ngày. Đồ thị của chênh lệch này được thể hiện dưới dạng biểu đồ hình cột, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự giao cắt với đường trung tâm và sự phân kì. Điểm giao cắt giữa đường trung tâm đối với biểu đồ MACD tương tự như điểm giao cắt giữa một đường trung bình trượt và MACD. Đường trung bình trượt sẽ xuất hiện khi MACD dịch chuyển lên trên hay xuống dưới đường tín hiệu.
Nếu giá trị của MACD lớn hơn giá trị của EMA 9 ngày, thì giá trị của MACD-H sẽ dương. Ngược lại, nếu giá trị của MACD nhỏ hơn EMA 9 ngày, thì giá trị của MACD-H sẽ âm. Ngoài ra, sự gia tăng hay giảm đi trong khoảng cách giữa MACD và đường tín hiệu của nó sẽ được thể hiện trong MACD-H. Độ nhọn của MACD-H tăng chỉ ra rằng MACD tăng nhanh hơn EMA 9 ngày của nó. EMA và momentum tăng giá(bullish) ngày càng nhanh. Độ nhọn của MACD-H chỉ ra rằng MACD giảm nhanh hơn EMA 9 ngày của nó và sự giảm của momentum đang tăng.
Trong đồ thị trên đây, chúng ta có thể thấy biến động MACD-H độc lập với MACD thực tế. Đôi khi, MACD tăng trong khi MACD-H giảm. Ở thời điểm khác MACD giảm trong khi MACD-H tăng. MACD-H không đề cập đến giá trị tuyệt đối của MACD nhưng nó thể hiện mối quan hệ giữa đường MACD và EMA 9 ngày của nó. Thông thường, nhưng không phải luôn luôn , biến động của MACD xuất hiện trước sự phân kì tương đương trong biểu đồ MACD.
Điểm đầu tiên biểu diễn độ nhọn của phân kì dương trong MACD-H xuất hiện có trước điểm giao cắt trung bình trượt tăng giá (bullish).
Trên điểm thứ 2, đường MACD tiếp tục đạt các đỉnh mới nhưng MACD-H thể hiện 2 đỉnh bằng nhau. Mặc dù không fải là một trường hợp lý thuyết của phân kì dương, điểm đáy bằng nhau chứng tỏ thất bại trong khả năng dự báo của đường MACD.
Phân kì dương được hình thành khi MACD-H thể hiện một điểm đáy cao hơn và MACD tiếp tục thấp hơn nữa.
Phân kì âm được hình thành khi MACD-H biểu diễn một đỉnh thấp hơn và MACD tiếp tục tăng lên.
1. 6 .2. Cách sử dụng
T. Aspray tạo ra MACD-H như một công cụ để đoán các điểm giao cắt giữa các MA trong mô hình MACD. Sự phân kì giữa MACD và MACD-H là công cụ chính được sử dụng để đoán các điểm giao cắt giữa các MA. Phân kì dương trên MACD-H chỉ ra rằng MACD đang gia tăng và có thể gần tới điểm giao cắt trung bình trượt tăng giá. Phân kì âm trong biểu đồ MACD-H chỉ ra rằng MACD đang suy yếu, và nó báo trước một điểm cắt trung bình trượt giảm giá trên MACD.
Trong cuốn sách Technical analysis of financial markets, J.Murphy đã khẳng định lợi ích lớn nhất của MACD-H đó là nhận biết được trong những thời kì nào khoảng cách giữa MACD và EMA 9 ngày hay mở rộng hay thu hẹp. Nói rộng ra, khoảng cách được mở rộng chỉ ra rằng momentum tăng và khoảng cách thu hẹp chỉ ra rằng momentum giảm. Thường thì một sự thay đổi trên MACD-H sẽ xuất hiện trước bất cứ sự thay đổi nào trong đường MACD.
2.1. 6 .3. Các dấu hiệu
Dấu hiệu chính được khái quát bởi biểu đồ MACD là sự phân kì xuất hiện trước điểm giao cắt giữa các đường MA. Một dấu hiệu tăng giá được dự báo khi xuất hiện 1 phân kì dương và khi có 1 điểm cắt đường trung tâm bullish (làm tăng giá). Một dấu hiệu giảm giá được dự báo khi có một phân kì âm và điểm cắt đường trung tâm bearish(làm giảm giá). Cần nhớ rằng một điểm cắt đường trung tâm của MACD-H tương đương một điểm cắt giữa các đường MA trên MACD.
Sự phân kì có thể có nhiều dạng và nhiều góc độ khác nhau. Khái quát lại 2 dạng phân kì có thể nhận biết được đó là : đường phân kì xiên (slant divergence) và đường phân kì lồi lõm (peak-...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status