Ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Diệu - pdf 26

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Luận văn ThS. Ngôn ngữ học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013
Tìm hiểu và hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận nói chung, ẩn dụ tri nhận nói riêng, để làm cơ sở cho việc nghiên cứu. Thống kê và phân loại các hiện tượng ẩn dụ trong các tập thơ: Thơ thơ, Gửi hương cho gió, Riêng chung, Cầm tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng, tui giàu đôi mắt, Hồn tui đôi cánh I, II, III, đồng thời phân tích ‎ ý nghĩa của các ẩn dụ để thấy được giá trị và phong cách tư duy nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu

CHƢƠNG 1 :........................................................................................................
MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ẨN DỤ ..............................................
1.1 Khái niệm về ẩn dụ ........................................................................................
1.2 Ẩn dụ tri nhận ................................................................................................
1.2.1 Khái niệm tri nhận và ngôn ngữ học tri nhận............................................
1.2.2. Ẩn dụ tri nhận.............................................................................................
1.3 Sức mạnh của ẩn dụ tri nhận trong thơ ca.................................................
1.4 Cuộc đời và sự nghiệp thơ Xuân Diệu .........................................................
1.4.1 Vài nét về cuộc đời nhà thơ Xuân Diệu......................................................
1.4.2 Sự nghiệp......................................................................................................
Tiểu kết .................................................................................................................
CHƢƠNG 2 :........................................................................................................
ẨN DỤ CẤU TRÚC TRONG THƠ XUÂN DIỆU............................................
2.1 Nguồn biểu trƣng là bộ phận cơ thể ngƣời..................................................
2.1.1 Nguồn biểu trưng từ các bộ phận bên trong cơ thể con người ................
2.1.2 Nguồn biểu trưng từ các bộ phận bên ngoài cơ thể con người.................
2.2 Nguồn biểu trƣng từ thế giới tự nhiên .........................................................
2.2.1 Nguồn biểu trưng từ thực vật......................................................................
2.2.2 Nguồn biểu trưng từ động vật .....................................................................
2.2.3 Nguồn biểu trưng từ giới tự nhiên..............................................................
Tiểu kết .................................................................................................................
CHƢƠNG 3 :........................................................................................................
ẨN DỤ BẢN THỂ TRONG THƠ XUÂN DIỆU...............................................
3.1 Ẩn dụ bản thể .................................................................................................
3.2 Các ẩn dụ bản thể trong thơ Xuân Diệu......................................................
3.2.1 Ẩn dụ vật chứa không gian hạn chế ...........................................................
3.2.2 Sự việc, hành động, công việc, trạng thái...................................................
1. Lý do chọn đề tài
Hiện tƣợng ẩn dụ từ lâu đã đƣợc các nhà ngôn ngữ học quan tâm nghiên
cứu, thƣờng đƣợc coi là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm
giữa hai sự vật có sự tƣơng đồng hay giống nhau. Có thể xem so sánh ngầm là
quy trình cơ bản để hiểu về ẩn dụ.
Truyền thống của từ vựng học và tu từ học chỉ xem ẩn dụ là một phƣơng
thức phát triển nghĩa mới của từ hay để sử dụng từ theo chức năng tu từ. Nhƣng
trong ba thập niên gần đây, quan niệm về ẩn dụ đã thay đổi khi các nhà ngôn ngữ
học tri nhận cho rằng ẩn dụ là phƣơng thức tƣ duy của con ngƣời về thế giới,
hƣớng tới khả năng tác động vào lĩnh vực trí tuệ của con ngƣời, đồng thời là một
công cụ tri nhận mạnh mẽ để ý niệm hoá các phạm trù trừu tƣợng.
Đối với các tác phẩm văn chƣơng, ẩn dụ giúp cho các nhà văn, nhà thơ
đạt hiệu quả cao trong việc phác họa nên bức tranh nghệ thuật ngôn từ, đồng thời
tạo nên những hình tƣợng thẩm mĩ cho tác phẩm.
Tìm hiểu ẩn dụ là một phƣơng pháp khoa học để giải mã các giá trị cách
mạng trong thi ca, đồng thời là một bƣớc khảo nghiệm lý thú mối quan hệ giữa
ẩn dụ ngôn ngữ và ẩn dụ thi ca.
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới (1932-1945), và
đƣợc mệnh danh là "ông hoàng thơ tình" của thơ ca Việt Nam. Thơ ông diễn tả
một cách chân thực mọi khía cạnh tâm lý, mọi cung bậc xúc cảm rất đời, rất
ngƣời về cách yêu, cách nghĩ cũng nhƣ về lẽ sống.
Đã có khá nhiều bài viết, chuyên luận của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nƣớc quan tâm đến thơ ông với nhiều khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn
nhƣ các tác giả: Hà Minh Đức [13]; Ngô Bích Hƣơng [23]; Nguyễn Trọng
Khánh [24]; Lữ Huy Nguyên [32]… Nhƣng có một phƣơng diện chƣa đƣợc đề
cập tới trong thơ ông, đó là hiện tƣợng “Ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Diệu".
Đó chính là lý do cho sự ra đời của đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Ẩn dụ tri nhận là một khái niệm còn tƣơng đối mới mẻ. Trong giới
Việt ngữ học, tác giả Nguyễn Đức Tồn là một trong những ngƣời đầu tiên đề
cập đến vấn đề này một cách gián tiếp trong cuốn “Tìm hiểu đặc trưng văn
hóa- dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (Trong sự so sánh với các
dân tộc khác)” (Nxb ĐHQGHN, 2002). Sau đó, năm 2007, tác giả lại có các
bài viết rất sâu sắc bàn về Bản chất ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận ( [50]; [51]).
Năm 2005, vấn đề ngôn ngữ học tri nhận cũng đƣợc tác giả Lý Toàn
Thắng bàn trực tiếp trong cuốn “Ngôn ngữ học tri nhận, từ lý thuyết đại cương
đến thực tiễn tiếng Việt”, Nxb KHXH, H.2005). Tuy nhiên tác giả lại bàn sâu về
vấn đề tri nhận không gian mà chƣa dành một vị trí xứng đáng cho khái niệm ẩn
dụ tri nhận.
Năm 2009, Nhà xuất bản Lao Động Xã hội ấn hành cuốn sách về
ngôn ngữ học của tác giả Trần Văn Cơ có tựa đề “ Khảo sát ẩn dụ tri nhận”.
Trong cuốn sách này, tác giả trình bày khá cặn kẽ sự ra đời của ẩn dụ, bản
chất của ẩn dụ và sự phân loại các kiểu loại ẩn dụ tri nhận, gồm 4 loại: ẩn dụ
cấu trúc, ẩn dụ bản thể, ẩn dụ định hƣớng và ẩn dụ kênh liên lạc.
Tiếp theo, tác giả Hà Công Tài quan tâm chủ yếu tới đặc điểm và vai trò
ẩn dụ trong việc xây dựng các hình tƣợng hay hình thể trong thơ ca. Bên cạnh
đó còn phải kể đến một số đề tài luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt
nghiệp quan tâm đến vấn đề này. Đó là luận án tiến sĩ “So sánh và ẩn dụ trong
ca dao trữ tình Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Kim Ngọc; Luận văn thạc sĩ
“Ẩn dụ tri nhận trong ca dao” của tác giả Bùi Thị Kim Dung, ĐHKHXH&NV,
ĐHQG HN, 2008; Luận văn thạc sĩ “Ẩn dụ tri nhận, mô hình ẩn dụ cấu trúc trên
cứ liệu ca từ của Trịnh Công Sơn” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền,
ĐHKHXH&NV, ĐHQG TPHCM, 2009; …
Nhƣ vậy, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về ẩn dụ tri nhận,
nhƣng việc nghiên cứu ẩn dụ trong thơ là một vấn đề vẫn còn ít đƣợc quan tâm.
Vì vậy, với đề tài “Ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Diệu” chúng tui mong muốn
góp phần vào việc làm sáng tỏ thêm về ẩn dụ tri nhận, đặc biệt là loại ẩn dụ cấu
trúc và ẩn dụ bản thể. Nguồn tƣ liệu phong phú của thơ Xuân Diệu sẽ giúp chúng
ta hiểu sâu sắc hơn về ẩn dụ tri nhận trong những tác phẩm của ông.
3. Đối tƣợng và phạm vi thu thập tƣ liệu nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Diệu.
Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát, chúng tui thấy, trong thơ Xuân Diệu chỉ sử
dụng chủ yếu hai loại ẩn dụ: ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể. Vì vậy luận văn sẽ
trình bày cụ thể kết quả nghiên cứu của hai loại ẩn dụ này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích
Mục đích của đề tài là khảo sát ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Diệu, cụ thể
là loại ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ bản thể để có thể thấy đƣợc đặc điểm tƣ duy nghệ
thuật của ông. Qua cơ chế của ẩn dụ, chúng ta sẽ thấy đƣợc những rung cảm vi tế
của tác giả trong việc thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, yêu thiên nhiên,
yêu cuộc sống và yêu đất nƣớc, con ngƣời trƣớc năm 1945 và sau năm 1945
khác nhau nhƣ thế nào, đồng thời mong muốn tìm hiểu những đặc sắc nghệ thuật
ngôn từ qua cơ chế ẩn dụ tri nhận trong thơ ông.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Tìm hiểu và hệ thống hóa những cơ sở lý thuyết của ngôn ngữ học tri
nhận nói chung, ẩn dụ tri nhận nói riêng, để làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
- Thống kê và phân loại các hiện tƣợng ẩn dụ trong các tập thơ: Thơ
thơ, Gửi hương cho gió, Riêng chung, Cầm tay, Một khối hồng, Hai đợt sóng,
tui giàu đôi mắt, Hồn tui đôi cánh I, II, III, đồng thời phân tích ‎ý nghĩa của
các ẩn dụ để thấy đƣợc giá trị và phong cách tƣ duy nghệ thuật trong thơ
Xuân Diệu.
- Trong nghiên cứu, chúng tui sử dụng hệ thống thuật ngữ về ngôn ngữ
học tri nhận và ẩn dụ tri nhận của Trần Văn Cơ (2007), cách phân loại ẩn dụ tri
nhận của G.Lakoff và M. Johnson (1980) mà Trần Văn Cơ đã tổng hợp (2009).
5. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu
5.1 Thủ pháp thống kê
Thủ pháp này đƣợc sử dụng để tính tần số xuất hiện, qua đó thấy đƣợc
mức độ phổ biến nhƣ thế nào của mỗi tiểu loại ẩn dụ trong các tập thơ mà
luận văn khảo sát.
5.2. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa từ vựng
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng khi phân tích ‎ ý nghĩa của các từ ngữ
là phƣơng tiện tƣ duy theo ẩn dụ tri nhận trong thơ Xuân Diệu theo các tham
tố trong cấu trúc nghĩa của đơn vị từ vựng ấy. Từ việc phân tích đó, luận văn
làm rõ bản chất của mô hình ẩn dụ tri nhận đã cấu trúc hoá tri giác, tƣ duy,
và hoạt động của chúng ta nhƣ thế nào. Đặc biệt, khi ánh xạ vào tƣ duy của
nhà thơ thì các ẩn dụ ấy cho thấy đƣợc nét riêng biệt gì trong cách tri giác
cũng nhƣ tƣ duy về thế giới của cá nhân nhà thơ Xuân Diệu trong cuộc sống.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Các kết quả thu đƣợc của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ rằng ẩn dụ không
chỉ là vấn đề thuộc về bản thân ngôn ngữ, mà nó còn thuộc về phƣơng thức tƣ
duy của con ngƣời - dù đó là ẩn dụ từ vựng, hay ẩn dụ tu từ hay ẩn dụ ‎ ý niệm thì
cũng đều là phƣơng thức tƣ duy theo phạm trù. Khuynh hƣớng của ngôn ngữ
học tri nhận giúp chúng ta nhận thức rằng khi khai thác các tác phẩm nghệ thuật,
thơ ca thì không nên chỉ nhìn nhận ẩn dụ theo khuynh hƣớng của ngôn ngữ học
truyền thống, chỉ xem chúng nhƣ một thủ pháp tu từ nghệ thuật, mà nên xem ẩn
dụ nhƣ một công cụ tri nhận hữu hiệu của con ngƣời về thế giới, thông qua hệ
thống các ý niệm phản ánh các cảm xúc, hành vi, quan hệ của con ngƣời với thế
giới bên ngoài một cách vô thức, có sẵn dựa trên những sơ đồ nhất định trong
những mô hình văn hoá của dân tộc.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ phục vụ tốt cho việc phân tích và cảm
thụ tác phẩm thơ ca của Xuân Diệu nói riêng, các tác phẩm thơ ca nói chung. Các
kết quả nghiên cứu còn có ‎ý nghĩa nhất định đối với các nhà nghiên cứu trong lĩnh
vực, triết học, tâm lí học, nhân chủng học, đặc biệt là khoa học tri nhận. Đồng thời
những đóng góp này phần nào sẽ giúp cho các độc giả Việt Nam có thêm hiểu biết
và cách nhìn về ẩn dụ tri nhận với sự hành chức của nó trong văn thơ nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn gồm
có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Mấy vấn đề lý‎ luận cơ bản về ẩn dụ và ẩn dụ tri nhận
Chƣơng 2: Ẩn dụ cấu trúc trong thơ Xuân Diệu
Chƣơng 3: Ẩn dụ bản thể trong thơ Xuân Diệu
CHƢƠNG 1 :
MẤY VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ẨN DỤ
VÀ ẨN DỤ TRI NHẬN
1.1 Khái niệm về ẩn dụ
Ngôn ngữ học truyền thống coi ẩn dụ là một vấn đề thuộc ngôn ngữ
chứ không phải là vấn đề của tƣ duy. Vì vậy, ngôn ngữ học truyền thống đã
loại trừ ẩn dụ ra khỏi phạm vi lý‎luận và do đó đặt thơ ca và nghệ thuật ở
ngoại diên của đời sống tinh thần và cho rằng ẩn dụ chẳng đóng vai trò gì
trong những vấn đề hệ trọng của cuộc sống. Điều đó đã dẫn đến quan niệm
sai lầm cho rằng ẩn dụ chỉ là thứ thuộc về nhà thơ, nhà văn và thuộc về tác
phẩm văn học.
Theo quan niệm truyền thống, các nhà nghiên cứu có điểm chung khi
nói về ẩn dụ đƣợc Nguyễn Đức Tồn tổng kết lại trong Bản chất của ẩn dụ
nhƣ sau: “Ẩn dụ là phép hay cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so
sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng hay giống nhau” [50, 1].
Trong giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học, A.A.Reformatxki cho rằng:
“Ẩn dụ theo nghĩa chiết tự là "sự chuyển đổi", là trường hợp chuyển nghĩa
điển hình nhất. Sự chuyển nghĩa theo ẩn dụ được dựa trên sự giống nhau
của các sự vật về màu sắc, hình thức, đặc tính vận động” [92, 54].
Theo B.N. Golovin thì: “Sự chuyển đổi của các từ từ một đối tượng
này sang một đối tượng khác trên cơ sở sự giống nhau của chúng được gọi
là ẩn dụ” [91, 81].
Ju. X. Xtepanov cho rằng: “Bản thân từ Metaphor trong tiếng Hy Lạp
cũng có nghĩa là sự chuyển nghĩa, và khi một từ vẫn còn liên hệ với biểu vật
cũ nhưng lại có sự liên hệ mới với cái biểu vật mới thì hiện tượng ngôn ngữ
đó là ẩn dụ” [59, 51-52].
Các nhà Việt ngữ học cũng có quan điểm tƣơng tự. Chẳng hạn:
Nguyễn Văn Tu cho rằng: “Ẩn dụ là phép gọi tên một sự vật bằng tên
của một sự vật khác theo mối quan hệ gián tiếp. Muốn hiểu được mối quan
hệ đó chúng ta phải so sánh ngầm. Khác với hoán dụ, phép ẩn dụ, ta theo
tưởng tượng của ta mà gọi một sự vật, chỉ có vài dấu hiệu chung với sự vật
mà từ biểu thị trước thôi. Chính nhờ những dấu hiệu chung gián tiếp ấy mà
ta thấy mối quan hệ giữa các sự vật khác nhau” [54,159].
Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Ẩn dụ là sự chuyển đổi tên gọi dựa
vào sự giống nhau giữa các sự vật hay hiện tượng được so sánh với nhau”.
[14,126].
Đào Thản có quan điểm tƣơng tự về ẩn dụ: “Ẩn dụ cũng là một lối so
sánh dựa trên sự giống nhau về hình dáng, màu sắc, tính chất, phẩm chất
hay chức năng của hai đối tượng. Nhưng khác với so sánh dùng lối song
song hai phần đối tượng và phần so sánh bên cạnh nhau, ẩn dụ chỉ giữ lại
phần để so sánh” [40].
Nhƣ vậy, qua các định nghĩa trên về ẩn dụ, các tác giả đều có chung
quan điểm rằng: cơ sở của ẩn dụ là sự so sánh ngầm; là sự chuyển đổi tên
gọi hay chuyển đổi nghĩa. Tuy nhiên, các tác giả còn có mặt hạn chế là chƣa
thấy đƣợc rằng tuy sự so sánh các sự vật với nhau là cơ sở của hiện tƣợng ẩn
dụ, nhƣng chỉ có tiểu loại so sánh ngang bằng mới có thể là cơ sở của hiện
tƣợng ẩn dụ; các sự vật tham gia vào hiện tƣợng ẩn dụ phải là khác loại nhau.
Vì vậy, tác giả Nguyễn Đức Tồn đã khắc phục mặt hạn chế đó và chỉ ra rằng:
“dựa vào đặc điểm, thuộc tính nào đó có thể đồng nhất hóa các sự vật, hiện tƣợng khác loại nhau, rồi lấy tên gọi (hay các đặc điểm, thuộc tính…) của
sự vật, hiện tƣợng này (thƣờng mang tính cụ thể hơn) để thay thế khi gọi tên
hay nói về sự vật, hiện tƣợng kia (thƣờng mang tính trừu tƣợng hơn) sẽ tạo
ra đƣợc cách diễn đạt ẩn dụ".
Theo Nguyễn Đức Tồn [47, 508], đối với hoán dụ thì tình hình cũng
tƣơng tự - cơ sở của hoán dụ cũng chính là sự đồng nhất hoá ngầm. Muốn
hiểu hoán dụ cũng cần hiểu đƣợc sự đồng nhất/đẳng nhất hoá này.
Ví dụ: Trên cơ sở sự đồng nhất hoá ngầm đƣợc thể hiện qua câu đồng
nhất: “Lượng bia đựng trong vại là vại bia”, có thể thay thế cách nói: “Uống
hết lượng bia đựng trong vại” bằng cách nói theo hoán dụ: “ Uống hết vại
bia”.
Chính sự tƣơng đồng cùng dựa trên sự đồng nhất hoá ngầm các sự vật,
hiện tƣợng…này của ẩn dụ và hoán dụ có lẽ đã là lí do khiến cho viện sĩ
Ju.X. Xtepanov thấy rằng “ ẩn dụ với nghĩa rộng nhất của thuật ngữ này bao
gồm cả hoán dụ và cải dung v.v…” [59, 19].
Do vậy, trong luận văn này, hiện tƣợng lấy bộ phận cơ thể biểu trƣng
cho thế giới tâm lí tình cảm của con ngƣời cũng đƣợc chúng tui coi là ẩn dụ
theo nghĩa rộng của thuật ngữ ẩn dụ nhƣ viện sĩ Ju.X. Xtepanov đã quan
niệm .
Bên cạnh quan điểm truyền thống về ẩn dụ, các nhà ngôn ngữ học tri
nhận còn có quan điểm mới về ẩn dụ. Họ chỉ ra rằng: “Ân dụ không chỉ là
hiện tƣợng của ngôn ngữ mà là hiện tƣợng “hiện hữu trong tƣ duy và hành
động thƣờng nhật của chúng ta” [56, 66].
Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu quan tâm đến ẩn dụ đã mở rộng
phạm vi ứng dụng và nghiên cứu của nó ra nhiều lĩnh vực của tri thức: triết
học, tâm lý‎ học, thần kinh học…tạo ra nhiều khuynh hƣớng, trƣờng phái

0sD1Dpog9yTrA54
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status