Đánh giá về Hồ Quý Ly và nêu nguyên nhân thất bại, kết quả, bài học kinh nghiệm của cuộc cải cách - pdf 28

Download miễn phí Đề tài Đánh giá về Hồ Quý Ly và nêu nguyên nhân thất bại, kết quả, bài học kinh nghiệm của cuộc cải cách



MỤC LỤC
 
A. Mở đầu 1
B.Nội dung .4
 I.Nhận thức lí luận .4
 II.Một vài nét về Hồ Quý Ly và triều Hồ .6
 III.Tình hình xã hội Việt Nam cuối XIV 8
 IV.Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly .13
 V.Đánh giá về Hồ Quý Ly và cuộc cải cách .17
C.Kết luận .23
 
 
 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ket-noi - Kho tài liệu miễn phí lớn nhất của bạn


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ket-noi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ,
Dối trời lừa người, mưu gian đủ muôn ngàn kế,
Cậy binh gây hấn, tội ác chưa ngot 20 năm”.
Cuộc kháng chiến do nhà hồ lãnh đạo đã bị thất bại , thượng hoàng Hồ Quý Ly , vua Hồ Hán Thương và một loạt các đại thần của nhà Hồ đã bị nhà Minh bắt về Trung Quốc làm tù binh . Đến đây, nước ta đã bị nhà Minh đô hộ trong vòng 20 năm (1407 - 1427). Tuy nhà Hồ chỉ tồn tại được vẻn vẹn chưa đầy 7 năm (1400 - 1407) nhưng lại là triều đại có lắm chuyện đáng lưu tâm. Chúng ta phải thấy được những thành tựu mà nhà Hồ đã đạt được qua cuộc cải cách của Hồ Quý Ly về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội .Qua đó để rút ra những hậu quả , nguyên nhân thất bại và bài học kinh nghiệm quý giá .
III. Tình hình xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIV :
Xã hội Đại Việt sau một thời kỳ phát triển phồn vinh từ thế kỷ XI thì đến nửa sau thế kỷ XIV tức cuối đời Trần đã lâm vào một cuộc khủng hoảng khá sâu sắc, trì trệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội .Cụ thể :
Sự sa đoạ của tầng lớp quý tộc cầm quyền :
Tầng lớp quý tộc cầm quyền , họ là những người đứng đầu của một nước , đáng ra họ phải hoàn thành nhiệm vụ chăm lo cho đời sống nhân dân, củng cố và xây dựng đất nước ngày càng phát triển .Vậy mà ngược lại , trong vương triều Trần , từ Trần Dụ Tông (1341 - 1369) trở đi ngày càng đi vào con đường suy thoái .Vua quan đua nhau ăn chơi hưởng lạc, không còn chăm lo đến đời sống nhân dân như trước .
Vua Trần Dụ Tông sai người “đào hồ lớn ở vườn ngự nơi hậu cung , trong hồ chất đá làm núi , bên bờ hồ trồng thông , trúc và nhiều thứ cây khác, thêm vào đấy nào là cỏ lạ , hoa thơm , muông kỳ , chim quý . Bốn mặt khai thông cho nước sông vào . Lại đào hồ khác, bắt dân chở nước mặn chứa vào hồ để nuôi cá , các hải sản . Bắt người Hoả Châu chở cá sấu thả vào đấy .Lại làm dãy hành lang ở Tây Điện thẳng đến cửa Hoàng Phúc Nay xây cất, mai tu đạo , không lúc nào ngớt việc” . Nhà vua còn “ buông tuồng vô độ , tính nghiện rượu , thường sai các quan vào uống rượu cùng .Người nào uống được nhiều thì được ban thưởng . Bùi Khoan đã dùng kế giả vờ uống hết trăm thùng rượu , được thưởng tước hai tư “. Cũng trong ” Khâm Định Việt Sử thông giám Cương mục “, tập 1 , trang 638 .639, Nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội ,1998 , nhận xét của Quốc sử quán triều Nguyễn về Dụ Tông :”Nghiện rượu, mê đàn hát , xa xỉ , làm cung điện nguy nga , tường vách chạm trổ , lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời , món gì Dụ Tông cũng mắc .Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được “. Từ thực tế trì trệ như vậy của một ông vua cũng quá đủ để thông báo rằng một triều đình thối nát sắp suy sụp .
Bọn quý tộc , quan lại cũng bắt quân dân xây dựng dinh thự , chùa chiền , hát xướng , chơi bời phóng túng . Những kẻ bất tài nhưng khéo theo chiều gió , nịnh bợ đều được thăng quan tiến chức , làm cho kỉ cương triều chính rối loạn .Việc Chu Văn An – quan Tư Nghiệp Quốc tử giám dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần không được đã trả ấn từ quan là một bằng chứng.
Trong nội bộ tầng lớp quý tộc cầm quyền chia bè phái , mâu thuẫn ,giết hại lẫn nhau để tranh dành địa vị , quyền lực ngày càng khốc liệt . Điển hình là vụ một số quý tộc đại thần nhà Trần như Thái Bảo Trần Nguyên Hàng , Thượng tướng quân Trần Khát Chân mưu giết Hồ Quý Ly nhưng không thành công , cuối cùng bị Hồ Quý Ly giết chết cùng với hơn 370 quan lại quý tộc khác . Cuộc thanh trừng lẫn nhau diễn ra “hết năm này qua năm khác”( “Cương mục” – sđd , tập 1, tr 705 . Cuộc thanh Trừng này diễn ra vào năm 1399 ).
Trên đây là hiện thực của cuộc ăn chơi sa đoạ, đời sống hưởng lạc, thoái hoá của giới quý tộc cầm quyền trong vương triều Trần, từ vua cho đến quan lại Hậu quả đó đã đè nặng lên đầu những người dân vô tội . Vì không cứu vãn được tình thế , kết cục cuối cùng triều Trần đã sụp đổ và nhường vị trí đó cho một vương triều mới lên thay thế .
2. Đời sống cực khổ và phong trào khởi nghĩa của nhân dân:
Hậu quả của những cuộc ăn chơi sa đoạ, hưởng lạc, không chăm lo đến việc phát triển đất nước của giới vua quan, quý tộc đã làm cho cuộc sống của nhân dân trăm họ lầm than , khổ cực. Để tiến hành các cuộc “chinh phạt” các nước Ai Lao , Champa , triều Trần đã ra sức huy động sức người , sức của của nhân dân , buộc nông dân cùng kiệt phải bỏ ruộng đồng . Đồng thời, từ đầu thế kỷ XIV, do mất mùa đói kém, nông dân đã phải bán vợ đợ con, bán mình làm nô tỳ cho các quý tộc, địa chủ giàu có. Lợi dụng tình trạng khốn cùng đó của nông dân, bọn chúng đã xâm chiếm hay mua rẻ ruộng đất, mở rộng điền trang, tăng thêm số người làm. Nhiều nhà chùa cũng trở thành chủ đất lớn với rất nhiều điền nô.
Đời sống của nhân dân càng trở nên đói kém không chỉ vì bị bóc lột, bị chiến tranh mà còn phải hứng chịu những trận thiên tai hoành hành. Do nhà nước không còn sức quan tâm đến sản xuất nông nghiệp, sửa đắp và bảo vệ các công trình thuỷ lợi, đê điều. Cho nên , trong nửa sau thế kỷ XIV đã có 9 lần đê vỡ, lụt lớn, 11 lần hạn hán. Cụ thể, có những năm vừa lũ lụt vừa hạn hán như : 1348, 1355, 1393, vv.Hậu quả của tình trạng này, chỉ tính từ đầu thế kỷ XIV cho đến năm 1379 đã có hơn 10 nạn đói lớn, ngân quỹ trống rỗng, nhà nước nhiều lần cho nhà giàu nộp tiền, thóc để nhận quan tước nhưng không giải quyết nổi nạn đói và thiếu thốn. Đời sống điêu đứng của người dân được phản ánh rất rõ qua mấy câu thơ của tướng quốc triều Trần Trần Nguyên Đán:
Dịch nghĩa: “Năm nay hè hạn, thu nước to,
Mạ thối lúa khô hại biết bao
Đọc sách triệu trang mà bất lực
Bạc đầu xin phụ nổi thương dân .”
Còn trong bức thư của Thái học sinh Nguyễn Phi Khanh gửi cha,viết:
”Ruộng lúa ngàn dặm đỏ như cháy
Đồng quê than vãn trông vào đâu
Lưới chài quan lại còn vơ vét
Máu thịt nhân dân cạn nửa rồi.”
Có “áp bức thì có đấu tranh”, “tức nước thì vỡ bờ”, khi cụôc sống của người dân đã đến mức bần cùng, không còn con đường nào khác là họ phải vùng dậy đấu tranh. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn xã hội sâu sắc và phong trào khởi nghĩa nông dân cuối thế kỷ XIV. Năm 1343, do đại hạn, mất mùa, dân cùng kiệt đã nổi dậy khắp nơi. Năm 1344, khởi nghĩa của Ngô Bệ nổ ra ở Yên Phụ ( Hải Dương ) đánh phá nhà của bọn địa chủ, quan lại. Cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp nhưng 14 năm sau, năm 1357 – 1358 nghĩa quân của Ngô Bệ lại bùng lên ở Yên Phụ, Yết Bảng với khẩu hiệu “chấn cưú dân nghèo”, chống lại quân triều đình. Nghĩa quân làm chủ cả một vùng rông lớn thuộc huyện Chí Linh ( Hải Dương ), chiến đấu cho đến năm 1360 mới bị dập tắt. Năm 1354, khởi nghĩa của một người tên Tề tự xưng là cháu ngoại của Trần Hưng Đạo đánh vào vùng Lạng Giang ( Bắc Giang ). Năm 1379, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thanh ở Thanh Hoá. Đầu năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn phất cờ khởi nghĩa ở Quốc Oai ( Hà Tây) . Năm 1399, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái nổ ra ở vùng Sơn Tây, Vĩnh PhúcQua tất cả các cuộc khởi nghĩa này, chúng ta thấy lực lượng tham gia đấu tranh rất đông đảo, chủ yếu là nông dân nghèo, nông nô, nô tỳ trong các điền trang của vương hầu, quý tộc Trần. Các cuộc khởi nghĩa mặc dù bị đàn áp đẫm máu nhưng phần nào nói lên được tinh thần chiến đấu, sức kháng cự của nhân dân là rất mãnh liệt. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chứng tỏ từ cuối thế kỷ XIV, xã hội Việt Nam đã bước vào cuộc khủng hoảng, suy thoái của vương triều thống trị, những mâu thuẫn sâu sắc trong chế đọ ruộng đất và nông nghiệp đương thời.
3.Sự bất lực của triều Trần trước các cuộc xâm lược,yêu sách của nước ngoài:
Từ đầu những năm 60 của thế kỷ XIV, nước Champa hùng mạnh thường xuyên đem quân lên đánh phá các vùng biên giới phía Nam Đại Việt và cũng đã có vài ba lần tiến quân đánh phá kinh thành Thăng Long , vua Trần phải đi lánh nạn . Quân Champa đã cuớp phá nhà cửa , kho tàng , đốt cung điện rôì rút về . Cũng đã có nhiều lần nhà Trần đem quân chống lại quân Champa nhưng không ít lần bị thất bại. Cụ thể: vào năm 1376, nhân dân Champa đánh ra Hoá Châu, Trần Nghệ Tông cùng con là Trần Thuận Tông kéo đại quân đánh vào Champa. Quân dân Nghệ An, Tân Bình, Thuận Châu, Hoá Châu được lệnh chuyên chở lương thực đi theo. Vua Chế Bồng Nga của Champa đã trá hàng và dụ cho quân Trần vào đến kinh đô thành Trà Bàn rồi phục kích tiêu diệt nhanh chóng. Kết cục vua Trần Duệ Tông tử trận, Ngự câu Vương Húc đầu hàng. Năm 1378, quân của Hồ Quý Ly đã đánh bại quân Champa khi chúng đánh ra Nghệ An . Năm 1383, trong quá trình chiến đấu đã bị thua trận, tướng Lê Mật Ôn bị chết, vua Trần Nghệ Tông phải rời kinh thành lên Đông Ngàn (Bắc Ninh), chỉ còn tướng Nguyễn Đa Phương ở lại trấn giữ. Riêng trận đánh tháng 10/1389 do Hồ Quý Ly chỉ huy khi quân Champa đánh ra Thanh Hoá đã bị thua , hơn 70 tướng bị chết. Như vậy, cuộc chiến tranh với Champa vừa nói lên sự suy yếu của nhà Trần vừa gây thêm nhiều khó khăn cho triều đình và nhân dân đương thời. Cuộc khủng hoảng xã hội càng thêm trầm trọng.
Lợi dụng sự suy yếu của nhà Trần, vào năm 1384, quân Minh đã kéo quân vào đánh Vân Nam, bắt nhà Trần phải cung cấp lương thực cho chúng. Vua Trần buộc phải cho người vận chuyển 5000 thạch lương lên nộp. Năm 1388, nhà Minh...
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status