Tài liệu Đề tài " Những nét cơ bản nhất của lịch sử hình thành phép biện chứng " doc - Pdf 10


TRƯỜNG
KHOA……………………
Tiểu luận Đề tài
Những nét cơ bản nhất của lịch sử
hình thành phép biện chứng
LỜI NÓI ĐẦU

Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy triết học
gắn liền với cuộc đấu tranh của hai phương pháp tư duy biện chứng và siêu
hình. Lịch sử phép biện chứng đã trải qua quá trình phát triển lâu dài và đã có
lúc bị phép siêu hình thống trị. Song với tính chất khoa học và cách mạng của
mình, phép biện chứng mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật đã khẳng định
vị trí của mình là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu
sắc nhất và không phiến diện.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh rằng chỉ khi nào con người nắm
vững những lý luận về phép biện chứng và vận dụng sáng tạo các nguyên tắc
phương pháp luận của nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể thì quá trình cải
tạo tự nhiên và biến đổi xã hội mới thực sự mang tính cách mạng triệt để.
Ngược lại, quan điểm siêu hình luôn xem xét sự vật trong trạng thái biệt lập với
lối tư duy cứng nhắc sẽ dẫn tới những hạn chế và sai lầm không thể tránh khỏi
trong tiến trình phát triển xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình hình thành

biện chứng duy vật.
Hạn chế của phương pháp siêu hình thể hiện ở chỗ chỉ thấy những sự
việc cá biệt mà không thấy mối liên hệ giữa những sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại
của sự vật mà không rhấy sự ra đời và biến đi của sự vật, chỉ thấy trạng thái
tĩnh của sự vật mà không thấy trạng thái động của nó. Quan điểm biện chứng
đã khắc phục được những hạn chế của phương pháp siêu hình bằng cách xem
xét các sự vật trong mối liên hệ qua lại với nhau, không chỉ thấy sự tồn tại mà
còn rhấy cả sự hình thành và tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy trạng thái
tĩnh mà còn thấy cả trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật.
Tuy nhiên, Ăngghen cũng khẳng định rằng thế giới quan siêu hình là điều
không thể tránh khỏi và sự ra đời của nó là hợp quy luật đối với một giai đoạn
nhất định trong lịch sử phát triển của nhận thức khoa học – giai đoạn nghiên
cứu các chi tiết của bức tranh toàn cảnh về thế giới tự nhiên. Muốn nhận thức
được các chi tiết ấy, người ta buộc phải tách chúng ra khỏi những mối liên hệ

2
tự nhiên, lịch sử của chúng để nghiên cứu riêng từng chi tiết một theo đặc tính
của chúng, theo nguyên nhân, kết quả riêng của chúng. Thời kỳ này kéo dài từ
cuối thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
việc nghiên cứu tiến từ giai đoạn sưu tập sang giai đoạn chỉnh lý, nghiên cứu về
các quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì phương pháp siêu
hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học. Cuộc khủng
hoảng Vật lý học cuối thế kỷ XIX do ảnh hưởng của quan niệm siêu hình là
một minh chứng cho hạn chế của phương pháp siêu hình. Những kết quả
nghiên cứu của khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và sinh học đã đòi hỏi và
chứng tỏ rằng cần phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới và khi đó, phép
siêu hình đã bị phủ định nhường chỗ cho phép biện chứng.
Trong lịch sử triết học, phương pháp biện chứng đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển cao thấp khác nhau, trong đó phép biện chứng duy vật là thành
quả phát triển cao nhất và khoa học nhất của tư duy biện chứng. Sau đây chúng

mà con người cần phải chấp nhận.
c. Triết học Lokayata
Theo phái Lokayata, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới được tạo ra từ
bốn nguyên tố vật lý: đất, nước, lửa và không khí. Các nguyên tố này tự tồn tại,
tự vận động trong không gian mà tạo thành tất cả các sự vật, kể cả con người.
Đây là trường phái duy vật và vô thần triệt để nhất trong các trường phái triết
học Ấn Độ cổ đại. Nó ra đời từ phong trào đấu tranh chống sự thống trị của chủ
nghĩa duy tâm trong Veda và giáo lý của đạo Bàlamôn đòi tự do tư tưởng và
bình đẳng xã hội.
d. Triết học Phật giáo
Khi luận giải những vấn đề thuộc thế giới quan và nhân sinh quan triết
học, Phật giáo đã đề cập tới hàng loạt những vấn đề thuộc phạm vi của phép
biện chứng, với tư cách là học thuyết triết học về mối liên hệ phổ biến và sự
biến đổi của mọi tồn tại. Thế giới quan triết học phật giáo và những tư tưởng
biện chứng của nó được thể hiện qua một số phạm trù cơ bản là: vô ngã, vô
thường và nhân quả.

4
- Vô ngã là không có cái tôi bất biến. Cách nhìn này hoàn toàn đối lập
với cách nhìn siêu hình về tồn tại. Cũng từ cách nhìn này, triết học Phật giáo
đưa ra những nguyên lý về mối liên hệ tất định, phổ biến: không có cái nào là
biệt lập tuyệt đối so với tồn tại khác, tất cả đều hoà đồng nhau.
- Vô thường nói lên sự biến đổi không ngừng của vạn vật, không có cái gì
đứng im. Quy luật vô thường của mọi tồn tại là Sinh - Trụ - Dị - Diệt.
Đây là một phỏng đoán biện chứng về sự biến đổi của tồn tại.
- Quy luật nhân quả cho rằng sự tồn tại đa dạng và phong phú của thế
giới đều có nguyên nhân tự thân, đó là quy luật nhân quả, một định lý tất định
và phổ biến của mọi tồn tại, dù đó là vũ trụ hay nhân sinh.
Triết học ấn Độ là một trong những nôi triết học vĩ đại của loài người
thời kỳ cổ đại. Nó chứa đựng những yếu tố duy vật, vô thần và đã manh nha

Hai là, nguyên lý của sự sinh thành và vận động là có tính quy luật, chu
kỳ và chu kỳ đó được bảo đảm bởi nguyên tắc cân bằng Âm - Dương.
Ba là, nguyên lý phân đôi cái thống nhất trong lôgíc của sự vận động là
một nguyên lý tất định. Nguyên lý đó được khái quát bằng một lôgíc như sau:
Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái,
Bát quái tương thôi sinh vô cùng (vạn vật).
Về bản thể luận, phái Âm - Dương quy thế giới về những dạng vật chất
cụ thể và coi chúng là nguồn gốc sinh ra vạn vật. Theo phái này, nguyên thuỷ
của thế giới bao gồm Kim - Mộc - Thuỷ - Hoả - Thổ.
b. Triết học của phái Đạo gia
Người khởi xướng triết học phái Đạo gia là Lão Tử. Những ý kiến luận
giải về Đạo, coi Đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của
vũ trụ đã thể hiện rất sâu sắc quan điểm biện chứng của Lão Tử. Trong đó nổi
bật lên hai quan điểm về phép biện chứng của ông là quan điểm về luật quân
bình và quan điểm về luật phản phục. Luật quân bình để giữ cho sự vận hành
của vạn vật được cân bằng, không thái quá mà cũng không bất cập. Phản phục
là nói lên tính tuần hoàn, tính chu kỳ trong quá trình biến dịch của vạn vật.
Sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập cũng là một tư tưởng biện

6
chứng độc đáo của Lão Tử. Ông cho rằng: có và không sinh lẫn nhau, dễ và
khó tạo nên nhau, ngắn và dài làm rõ nhau, cao và thấp tựa vào nhau, trước và
sau theo nhau. Trong đó, mỗi mặt đều trong mối quan hệ với mặt đối lập,
không có mặt này thì cũng không có mặt kia và giữa chúng chỉ là tương đối.
Tuy nhiên, sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong sự vật, hiện
tượng không theo khuynh hướng phát triển, xuất hiện cái mới mà theo vòng
tuần hoàn của luật phản phục. Hơn nữa, Lão Tử không chủ trương giải quyết
mâu thuẫn bằng đấu tranh của các mặt đối lập mà ông chủ trương lấy cái tĩnh,
cái vô vi để tạo thành sự chuyển hoá theo luật quân bình. Chính vì thế, phép
biện chứng của ông mang tính chất máy móc, lặp đi lặp lại một cách tuần hoàn.

Trung Quốc cổ đại. Các tư tưởng triết học của ông biểu hiện rõ tính chất duy
vật và biện chứng tự phát về lịch sử và phương pháp trị nước. Về lịch sử, Hàn
Phi cho rằng lịch sử xã hội loài người luôn biến đổi, từ trước tới nay không có
chế độ xã hội nào vĩnh viễn tồn tại. Mặt khác, ông cho rằng động lực căn bản
quyết định sự biến đổi của lịch sử là do sự thay đổi dân số và của cải xã hội
nhiều ít. Do vậy, khi bàn về phương pháp trị nước, ông cho rằng kẻ thống trị
phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, tuỳ đặc điểm, hoàn cảnh thời
thế mà lập ra chế độ, đặt chính sách và phương pháp trị nước mới cho phù hợp.
Không có thứ luật nào luôn luôn đúng với mọi thời đại. Tuy Hàn Phi chưa thấy
được động lực thực sự của lịch sử, nhưng ông đã cố gắng đi tìm nguyên nhân
biến đổi của đời sống xã hội trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tóm lại, do sự hạn chế của trình độ hoạt động thực tiễn và trình độ nhận
thức, triết học Trung Quốc cổ đại mới chỉ dừng lại ở chủ nghĩa duy vật chất
phác, cảm tính và phép biện chứng tự phát, sơ khai. Song với các quan điểm
biện chứng trong cách kiến giải về vũ trụ quan, có thể nói triết học Trung Quốc
cổ đại đã đặt cơ sở rộng lớn cho sự phát triển các tư tưởng biện chứng của triết
học nhân loại.
3. Phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển vào thế kỷ thứ VI trước CN. Cơ sở
kinh tế của nền triết học đó là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất

8
và người nô lệ. Khoa học lúc đó chưa phân ngành, các nhà triết học đồng thời
là nhà toán học, vật lý học, thiên văn học, Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ
đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Đời sống chính trị
của Hy Lạp bấy giờ sôi động, những quan hệ thương mại với nhiều nước khác
nhau trên Địa Trung Hải, sự tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức
muôn vẻ của nhân dân các nước ấy, sự quan sát các hiện tượng tự nhiên một
cách trực tiếp như một khối duy nhất và lòng mong muốn giải thích chúng một
cách khoa học đã góp phần quy định và làm phát triển thế giới quan duy vật và

dạng một hệ thống các luận điểm khoa học như sau này, nhưng hầu như các
luận điểm cốt lõi của phép biện chứng đã được ông đề cập dưới dạng các câu
danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Các tư tưởng biện chứng của ông thể
hiện trên các điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, quan niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Theo Hêraclít,
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và ngược lại.
Thứ hai, quan niệm về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi
sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán của ông về vai trò
của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên, về sự trao đổi
của những mặt đối lập, về sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập.
Thứ ba, theo Hêraclít, sự vận động và phát triển không ngừng của thế
giới do quy luật khách quan (logos) quy định. Logos khách quan là trật tự
khách quan của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ,
học thuyết, lời nói, suy nghĩ của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với
logos khách quan.
Lý luận nhận thức của Hêraclít còn mang tính chất duy vật và biện chứng
sơ khai, nhưng về cơ bản là đúng đắn. Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống
triết học khác không có tư tưởng biện chứng nào sâu sắc như vậy. Heraclít đã
đưa triết học duy vật cổ đại tiến lên một bước mới với những quan điểm duy
vật và những yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông đã được nhiều nhà triết
học cận đại, hiện đại kế thừa và phát triển sau này. Mác và Ăngghen đã đánh

10
giá một cách đúng đắn giá trị triết học của Hêraclít, coi ông là đại biểu xuất sắc
của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen cũng vạch rõ
những hạn chế, sai lầm của Hêraclít về mặt chính trị. Đó là tính chất phản dân
chủ, thù địch với nhân dân và ông chủ trương dùng chính quyền để dập tắt
nhanh chóng phong trào dân chủ.
d. Pácmênít

g. Đêmôcrít
Đêmôcrít là một trong những người đã phát triển thuyết nguyên tử lên
một trình độ mới. Một mặt, ông tán thành lý thuyết tồn tại duy nhất và bất biến
của Pácmênít khi coi các nguyên tử là bất biến, mặt khác, ông kế thừa quan
điểm của Hêraclít cho rằng mọi sự vật biến đổi không ngừng. Đêmôcrít đã nêu
ra lý thuyết về vũ trụ học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lý luận
nguyên tử về cấu tạo của vật chất, thấm nhuần tinh thần biện chứng tự phát và
có một ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử triết học. Đêmôcrít khẳng định: vũ trụ là
vô tận và vĩnh viễn, có vô số thế giới vĩnh viễn phát sinh, phát triển và bị tiêu
diệt. Quan điểm của Đêmôcrít về vận động gắn liền với vật chất là một phỏng
đoán có giá trị đặc biệt. Theo ông, vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, và ông
đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử ở bản thân nguyên
tử, ở động lực tự thân, tự nó. Tuy nhiên ông đã không lý giải được nguồn gốc
của vận động. Dựa trên học thuyết nguyên tử, Đêmôcrít đã đi tới quan điểm
quyết định luận. Đó là thừa nhận sự ràng buộc theo luật nhân quả, tính tất nhiên
và khách quan của các hiện tượng tự nhiên. Đây là một quan điểm có giá trị của
Đêmôcrít đóng góp cho nền triết học Hy Lạp cổ đại. Về mặt bản thể luận,
Đêmôcrít đã có công đưa lý luận nhận thức duy vật lên một bước mới. Khác
với nhiều nhà triết học trước đó, phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính, tuyệt
đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã chia nhận thức thành hai
dạng là nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý. Mặc dù triết học của
Đêmôcrít còn mang tính chất thô sơ, chất phác song những đóng góp của ông
về các tư tưởng biện chứng và thế giới quan duy vật là rất đáng ghi nhận.
h. Xôcrát và Platôn

12
Xôcrát và Platôn là hai đại diện tiêu biểu của hệ thống triết học duy tâm
Hy Lạp cổ đại. Triết học Xôcrát có đóng góp quan trọng vào việc tạo ra bước
tiến mới trong sự phát triển triết học Hy Lạp cổ đại. Nếu các nhà triết học trước
Xôcrát chủ yếu bàn về vấn đề khởi nguyên thế giới, về nhận thức luận thì

Arixtốt thể hiện ở ông thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật
chất mãi mãi vận động và biến đổi, không có bản chất của sự vật tồn tại bên
ngoài sự vật, hơn nữa sự vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự
vật khác. Ông cho rằng, vận động gắn liền với các vật thể, với mọi sự vật hiện
tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định, vận động là không thể bị tiêu
diệt, đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động. Trong lập luận này, ông đã
tiến gần đến quan niệm vận động là tự thân của vật chất. Song cuối cùng ông
lại rơi vào duy tâm khi cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tuy nhiên, nếu như trước đây Hêraclít và Đêmôcrít chưa phân biệt được các
hình thức của vận động thì đến Arixtốt là người đầu tiên đã hệ thống hoá các
hình thức vận động thành sáu dạng khác nhau. Lý thuyết về vận động của
Arixtốt là một thành quả có giá trị cao của khoa học cổ Hy Lạp. Về lôgíc học,
Arixtốt đã cố gắng giải quyết mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa cái
chung và cái riêng nhưng ông không giải quyết được vấn đề chuyển hoá từ cái
riêng thành cái chung. Lôgíc học hình thức của Arixtốt tuy chưa hoàn hảo song
ông đã để lại cho nhân loại một môn khoa học về tư duy. Chính ông đã nghiên
cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng mà không tách rời
chúng khỏi hiện thực. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và là nhà tư tưởng của
giai cấp chủ nô Hy Lạp cho nên về bản thể luận triết học, ông dao động giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nên ông lại rơi vào phái nhị nguyên
luận.
Tóm lại, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện rất rõ nét cuộc đấu tranh giữa
biện chứng và siêu hình mà song song với nó là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Với các thành tựu nổi bật như thuyết nguyên tử
của Đêmôcrít, phép biện chứng duy tâm của Xôcrát, Platôn và phép biện chứng
chất phác của Arixtốt, triết học Hy Lạp cổ đại đã bao chứa mầm mống của tất

14
cả thế giới quan về sau này và đánh dấu sự phát triển tư duy biện chứng trong
lịch sử triết học nhân loại. Chính vì vậy, Lênin coi phép biện chứng của các nhà

Brunô có vai trò quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng. Ông nêu
ra tư tưởng biện chứng về sự phù hợp của các mặt đối lập trong sự thống nhất vô
tận của vũ trụ. Theo ông, trong giới tự nhiên, mọi cái đều có liên hệ với nhau và
đều vận động. Cái này mất đi thì cái khác ra đời, không chỉ là sự vận động mà
còn là sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập, ví dụ như tình yêu chuyển thành căm
thù và ngược lại hay thuốc độc cũng chữa được bệnh. Về mặt nhận thức luận,
Brunô đã đưa ra quan niệm biện chứng trong việc nhận thức giới tự nhiên. Ông
cho rằng ai muốn nhận thức những bí mật của giới tự nhiên thì hãy xem xét cái
tối thiểu và cái tối đa của những mâu thuẫn và những mặt đối lập. Mặc dù có
những tư tưởng tiến bộ nhưng thế giới quan triết học của Brunô vẫn chịu ảnh
hưởng tư tưởng triết học sai lầm của Arixtốt coi vật chất đầu tiên là hoàn toàn
thụ động, phải nhờ đến tính năng động của hình dạng thì nó mới có tính năng
động.
2.Phép biện chứng trong thời kỳ cận đại
Triết học thời kỳ này gắn chặt với các thành tựu của khoa học tự nhiên.
Nếu như triết học cổ đại dựa trên cơ sở quan sát và các phỏng đoán thiên tài thì
thời kỳ này triết học lại dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát
các thành tựu của khoa học tự nhiên và được chứng minh bằng khoa học tự
nhiên. Các nhà khoa học tự nhiên thời kỳ này cũng đồng thời là nhà triết học.
Tuy nhiên, triết học Tây Âu thời cận đại lại rơi vào siêu hình, máy móc. Các
nhà khoa học thời kỳ này đi sâu vào từng lĩnh vực riêng biệt để nhận thức. Điều
này cho phép nhận thức sâu sắc về tự nhiên song lại tạo ra một thói quen xem
xét tự nhiên trong trạng thái cô lập, tĩnh tại của nó. Từ đó làm xuất hiện sự
thống trị của phương pháp tư duy siêu hình. Tuy nhiên một số học thuyết triết
học thời kỳ này vẫn chứa đựng những quan điểm biện chứng sâu sắc, với các
đại biểu như Phrăngxi Bêcơn, Barút Xpinôda, Rơnê Đêcáctơ.
a. Triết học của Phrăngxi Bêcơn
Về cơ bản, P. Bêcơn là một nhà duy vật, ông thừa nhận thế giới là sự kết

16

17
Như vậy, ngay cả trong giai đoạn phương pháp tư duy siêu hình giữ vị trí
thống trị thì trong các học thuyết triết học vẫn xuất hiện những yếu tố biện
chứng sâu sắc. Do sự kìm hãm của phương pháp siêu hình từ khoa học tự nhiên
chuyển sang triết học, phép biện chứng chưa có cơ hội để phát triển mạnh mẽ
trong thời kỳ phục hưng và cận đại song đây là bước chuẩn bị cho phép biện
chứng duy tâm cổ điển Đức ra đời.
IV. SỰ HÌNH THÀNH PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỔ ĐIỂN ĐỨC
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, trước sự đòi hỏi của sự phát triển
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu, khoa học tự nhiên
đã phát triển đạt đến trình độ cao. Phương pháp tư duy siêu hình đã bộc lộ
những hạn chế và bất lực trong việc giải quyết các vấn đề về tự nhiên và xã
hội. Triết học cổ điển Đức ra đời đem lại cái nhìn mới về bản chất các hiện
tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của các tri thức
triết học trong thời kỳ này đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là một
phương pháp lý giải các vấn đề cấp bách của triết học và hơn thế nâng nó lên
thành một khoa học thật sự. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức bắt đầu
được hình thành ở Cantơ và hoàn chỉnh ở Hêghen. Triết học cổ điển Đức đã
xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên
và xã hội. Giả thuyết về sự hình thành vũ trụ của Cantơ cũng như việc phát
hiện ra các quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng trong triết học
của Hêghen làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học đã thực sự
mang ý nghĩa cách mạng trong triết học.
1. Phép biện chứng của Imanuen Cantơ
Cantơ được đánh giá là người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức. Ông
là tác giả của hai phát minh quan trọng về khoa học tự nhiên. Phát minh thứ
nhất là giả thuyết về sự hình thành vũ trụ từ những hạt bụi vật chất dưới tác
dụng của các lực hút và lực đẩy của vật chất; phát minh thứ hai là giả thuyết về
sự lên xuống của thủy triều dưới tác động của mặt trăng và trái đất. Vào thời kỳ

trên cơ sở của ba nguyên tắc:

19
+ Nguyên tắc thứ nhất: Chất và lượng quy định lẫn nhau. Những chuyển
hoá về lượng sẽ dẫn tới những biến đổi về chất và ngược lại;
+ Nguyên tắc thứ hai: Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
với tư cách là nguồn gốc và động lực của sự phát triển;
Khi nghiên cứu các nguyên tắc này, Hêghen đã giải quyết một cách biện
chứng mối liên hệ chuyển hoá giữa bản chất và hiện tượng, khả năng và hiện
thực, nguyên nhân và kết quả.
+ Nguyên tắc thứ ba: Phủ định của phủ định với tính cách là sự phát triển
diễn ra theo hình thức xoáy ốc. Khi lý giải nguyên tắc này, Hêghen đã giải
quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa lôgíc
và lịch sử.
Trong tác phẩm “Triết học tự nhiên”, Hêghen đã nêu lên những tư tưởng
biện chứng tài tình về sự thống nhất của vật chất và vận động; về tính chất mâu
thuẫn của những phạm trù không gian, thời gian và vận động; về sự phụ thuộc
của những đặc tính hoá học vào những thay đổi về lượng
Tuy nhiên, do đứng trên lập trường duy tâm khách quan, Hêghen cho
rằng đời sống xã hội và lịch sử diễn ra là sự tha hoá của ý niệm tuyệt đối. Và
một khi giới tự nhiên và lịch sử nhân loại đã đạt tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ
nhất thì khi đó giới tự nhiên không vận động và phát triển về mặt thời gian mà
chỉ vận động về mặt không gian. Đến đây, những tư tưởng biện chứng của ông
lại bị giới hạn bởi quan điểm siêu hình vì ông cho rằng sự phát triển có tận
cùng.
Tóm lại, Hêghen đã khái quát một cách sâu sắc và có hệ thống về những
vấn đề cốt lõi nhất của phép biện chứng và cần phải thừa nhận rằng những tư
tưởng biện chứng của ông là những tư tưởng tiến bộ, cách mạng. Song hệ thống
triết học của ông lại duy tâm, bảo thủ và đi ngược lại sự tiến bộ, cách mạng.
Một đại diện tiêu biểu khác của nền triết học cổ điển Đức là Lútvích

diễn ra trong tự nhiên, trên cơ sở đó nhận thức đúng đắn và toàn diện về bản
chất của các quá trình phát triển đó. Điều này tất yếu dẫn tới sự thay thế thế
giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình bằng phép biện chứng duy vật.

21
Chính Mác và Ăngghen đã khái quát về mặt triết học toàn bộ những thành tựu
của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ để xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng.
1. Phép biện chứng duy vật trong giai đoạn Mác - Ăngghen
Triết học Mác là học thuyết duy vật triệt để về tự nhiên, xã hội và con
người. Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triết học, đó là cho ra đời một hình thức cao của chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và hình thức cao của phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật. Nếu như các quan điểm triết học trước Mác mới chỉ dừng lại ở thế giới
quan duy vật siêu hình hay biện chứng duy tâm về xã hội thì đến giai đoạn Mác
- Ăngghen, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, phép biện chứng được xây dựng
dựa trên lập trường duy vật triệt để về tự nhiên và xã hội. Hơn thế, tính đúng
đắn của khoa học Mácxít luôn được minh chứng bởi các thành tựu vượt bậc của
khoa học thời đại.
Sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen là
một quá trình phát triển liên tục không ngừng. Từ cuối năm 1843 đến năm 1848
đánh dấu bước chuyển của Mác và Ăngghen từ lập trường của chủ nghĩa duy
tâm sang lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đánh dấu bước chuyển
đó là tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, lời nói
đầu” vào cuối năm 1843. Tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng duy vật biện
chứng sâu sắc. Cuối năm 1844, Mác và Ăngghen viết chung tác phẩm “Gia
đình thần thánh”, “Chống Brunô Bauơ và đồng bọn”. Trong đó, lần đầu tiên
Mác và Ăngghen trình bày những nguyên lý của triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Mùa xuân năm 1845, Mác viết tác phẩm “Luận cương về
Phơbách”, qua đó Mác phê phán những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật

phải tư duy năng động, linh hoạt, mềm dẻo và phải nhận thức được cái mới và
ủng hộ cái mới.
Lý luận về các cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật là
sự cụ thể hoá thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và phát triển.
- Các cặp phạm trù: cái riêng - cái chung, tất nhiên - ngẫu nhiên, bản

23
chất-hiện tượng giúp chúng ta rút ra được mối liên hệ bản chất, từ đó hiểu được
toàn bộ các mối liện hệ theo một hệ thống nhất định.
- Các cặp phạm trù: nguyên nhân - kết quả, khả năng - hiện thực là cơ sở
phương pháp luận để chỉ rõ trình tự kế tiếp nhau của các mối liên hệ và sự phát
triển là một quá trình tự nhiên.
- Cặp phạm trù nội dung và hình thức là cơ sở phương pháp luận để xây
dựng các hình thức tồn tại trong sự phụ thuộc vào nội dung, phản ánh tính đa
dạng của các phương pháp nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp
luận chỉ đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện,
phát triển và lịch sử cụ thể.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hạt nhân của
phép biện chứng. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển,
phản ánh quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật.
- Quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn tới những biến đổi
về chất và ngược lại phản ánh cách thức, cơ chế của quá trình phát triển là đi từ
những biến đổi nhỏ nhặt, dần dần về lượng đến giới hạn của độ thì gây ra sự
biến đổi về chất, thông qua bước nhảy vọt và ngược lại.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát khuynh hướng phát triển tiến
lên theo hình thức xoáy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong quá trình phát triển.
Phủ định biện chứng đòi hỏi phải tôn trọng tính kế thừa có chọn lọc.
Tóm lại, sự hình thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và
Ăngghen vừa là kết quả khái quát kinh nghiệm đấu tranh cách mạng và kế thừa


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status