Đề tài thực tập mạng máy tính và tường lửa doc - Pdf 11

ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Mạng máy tính và tường lửa
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
1
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của
công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ máy vi tính và mạng máy tính với
sự bùng nổ của hàng ngàn cuộc cách mạng lớn nhỏ.
Sự ra đời của các mạng máy tính và những dịch vụ của nó đã mang lại cho
con người rất nhiều những lợi ích to lớn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ, đơn giản hóa những thủ tục lưu trữ, xử lý, trao chuyển thông
tin phức tạp, liên lạc và kết nối giữa những vị trí, khoảng cách rất lớn một
cách nhanh chóng, hiệu quả … Và mạng máy tính đã trở thành yếu tố không
thể thiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị cũng như văn hóa, tư
tưởng của bất kỳ quốc gia hay châu lục nào. Con người đã không còn bị giới
hạn bởi những khoảng cách về địa lý, có đầy đủ quyền năng hơn để sáng tạo
những giá trị mới vô giá về vật chất và tinh thần, thỏa mãn những khát vọng
lớn lao của chính họ và của toàn nhân loại. Cũng chính vì vậy, nếu không có
mạng máy tính, hoặc mạng máy tính không thể hoạt động như ý muốn thì hậu
quả sẽ rất nghiêm trọng. Và vấn đề an toàn cho mạng máy tính cũng phải
được đặt lên hàng đầu khi thiết kế, lắp đặt và đưa vào sử dụng một hệ thống
mạng máy tính dù là đơn giản nhất.
Bên cạnh đó, thông tin giữ một vai trò hết sức quan trọng bởi vì nếu như
thiếu thông tin, con người sẽ trở nên lạc hậu dẫn tới những hậu quả nghiêm
trọng, nền kinh tế chậm phát triển. Vì lý do đó, việc lưu giữ, trao đổi và quản
lý tốt nguồn tài nguyên thông tin để sử dụng đúng mục đích, không bị thất
thoát đã là mục tiêu hướng tới của không chỉ một ngành, một quốc gia mà của
toàn thế giới.
Vì vậy em muốn tìm hiểu về đề tài mạng máy tính và tường lửa. Do vốn

1.1.1. Giai đoạn 1: Từ 1945 đến 1958, với máy tính thế hệ thứ nhất sử
dụng công nghệ đèn chân không.
 Máy tính ENIAC (Electronic Numerical Integrator And Computer), do
John Mauchly và John Presper Eckert (đại học Pensylvania, Mỹ) thiết kế và
chế tạo, là chiếc máy số hoá điện tử đa năng đầu tiên trên thế giới.
- Nguồn gốc: Dự án chế tạo máy ENIAC được bắt đầu vào năm 1943.
Đây là một nỗ lực nhằm đáp ứng yêu cầu thời chiến của BRL (Ballistics
Research Laboratory – Phòng nghiên cứu đạn đạo quân đội Mỹ) trong việc
tính toán chính xác và nhanh chóng các bảng số liệu đạn đạo cho từng loại vũ
khí mới.
- Số liệu kỹ thuật: ENIAC là một chiếc máy khổng lồ với hơn 17000
bóng đèn chân không, nặng hơn 30 tấn, tiêu thụ một lượng điện năng vào
khoảng 140kW và chiếm một diện tích xấp xỉ 1393 m2. Mặc dù vậy, nó làm
việc nhanh hơn nhiều so với các loại máy tính điện cơ cùng thời với khả năng
thực hiện 100000 tao tác trong một giây đồng hồ.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
3
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Điểm khác biệt giữa ENIAC & các máy tính khác: ENIAC sử dụng hệ đếm
thập phân chứ không phải nhị phân như ở tất cả các máy tính khác.
- Hoạt động thực tế: Máy ENIAC bắt đầu hoạt động vào tháng 11/1945
với nhiệm vụ đầu tiên không phải là tính toán đạn đạo (vì chiến tranh thế giới
lần thứ hai đã kết thúc) mà để thực hiện các tính toán phức tạp dùng trong việc
xác định tính khả thi của bom H. Việc có thể sử dụng máy vào mục đích khác
với mục đích chế tạo ban đầu cho thấy tính đa năng của ENIAC. Máy tiếp tục
hoạt động dưới sự quản lý của BRL cho đến khi được tháo rời ra vào năm
1955.
 Máy tính Von Neumann
 Như đã đề cập ở trên, việc lập trình trên máy ENIAC là một công việc
rất tẻ nhạt và tốn kém nhiều thời gian. Công việc này có lẻ sẽ đơn giản hơn

của thế kỷ 20. Dù vậy, mãi đến cuối những năm 50, các máy tính bán dẫn
hóa hoàn toàn mới bắt đầu xuất hiện trên thị trường máy tính. Việc sử dụng
đèn bán dẫn trong chế tạo máy tính đã xác định thế hệ máy tính thứ hai,
với đại diện tiêu biểu là máy PDP–1 của công ty DEC (Digital EquIPment
Corporation) và IBM 7094 của IBM. DEC được thành lập vào năm 1957
và cũng trong năm đó cho ra đời sản phẩm đầu tiên của mình là máy PDP–
1 như đã đề cập ở trên. Đây là chiếc máy mở đầu cho dòng máy tính mini
của DEC, vốn rất phổ biến trong các máy tính thế hệ thứ ba.
1.1.3. Giai đoạn 3: Từ 1964 đến 1974, với máy tính thế hệ thứ ba sử dụng
công nghệ mạch tích hợp.
Một đèn bán dẫn tự chứa, đơn lẻ thường được gọi là một thành phần rời
rạc. Trong suốt những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ 20, các thiết bị
điện tử phần lớn được kết hợp từ những thành phần rời rạc – đèn bán dẫn,
điện trở, tụ điện, v.v Các thành phần rời rạc được sản xuất riêng biệt, đóng
gói trong các bộ chứa riêng, sau đó được dùng để nối lại với nhau trên những
bảng mạch. Các bảng này lại được gắn vào trong máy tính, máy kiểm tra dao
động, và các thiết bị điện tử khác nữa. Bất cứ khi nào một thiết bị điện tử cần
đến một đèn bán dẫn, một ống kim loại nhỏ chứa một mẫu silicon sẽ phải
được hàn vào một bảng mạch. Toàn bộ quá trình sản xuất, đi từ đèn bán dẫn
đến bảng mạch, là một quá trình tốn kém và không hiệu quả. Những vấn đề
như vậy đã làm nền tảng cho việc dẫn đến các bài toán mới trong công nghiệp
máy tính. Các máy tính thế hệ thứ hai ban đầu chứa khoảng 10000 đèn bán
dẫn. Con số này sau đó đã tăng lên nhanh chóng đến hàng trăm ngàn, làm cho
việc sản xuất các máy mạnh hơn, mới hơn gặp rất nhiều khó khăn.
Sự phát minh ra mạch tích hợp vào năm 1958 đã cách mạng hóa điện tử và
bắt đầu cho kỷ nguyên vi điện tử với nhiều thành tựu rực rỡ. Mạch tích hợp
chính là yếu tố xác định thế hệ thứ ba của máy tính. Trong mục tiếp sau đây
chúng ta sẽ tìm hiểu một cách ngắn gọn về công nghệ mạch tích hợp. Sau đó,
hai thành viên quan trọng nhất trong các máy tính thế hệ thứ ba, máy IBM
System/360 và máy DEC PDP–8, sẽ được giới thiệu cùng với các tính năng

 Bộ vi xử lý
Vào năm 1971, hãng Intel cho ra đời chIP 4004, chIP đầu tiên có chứa tất
cả mọi thành phần của một CPU trên một chIP đơn. Kỷ nguyên bộ vi xử lý đã
được khai sinh từ đó. ChIP 4004 có thể cộng hai số 4 bit và nhân bằng cách
lập lại phép cộng. Theo tiêu chuẩn ngày nay, chIP 4004 rõ ràng quá đơn giản,
nhưng nó đã đánh dấu sự bắt đầu của một quá trình tiến hóa liên tục về dung
lượng và sức mạnh của các bộ vi xử lý. Bước chuyển biến kế tiếp trong quá
trình tiến hóa nói trên là sự giới thiệu chIP Intel 8008 vào năm 1972. Đây là
bộ vi xử lý 8 bit đầu tiên và có độ phức tạp gấp đôi chIP 4004.
Đến năm 1974, Intel đưa ra chIP 8080, bộ vi xử lý đa dụng đầu tiên được
thiết kế để trở thành CPU của một máy vi tính đa dụng. So với chIP 8008,
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
6
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
chIP 8080 nhanh hơn, có tập chỉ thị phong phú hơn và có khả năng định địa
chỉ lớn hơn.
Cũng trong cùng thời gian đó, các bộ vi xử lý 16 bit đã bắt đầu được phát
triển. Mặc dù vậy, mãi đến cuối những năm 70, các bộ vi xử lý 16 bit đa dụng
mới xuất hiện trên thị trường. Sau đó đến năm 1981, cả Bell Lab và Hewlett–
packard đều đã phát triển các bộ vi xử lý đơn chIP 32 bit. Trong khi đó, Intel
giới thiệu bộ vi xử lý 32 bit của riêng mình là chIP 80386 vào năm 1985.
1.2. Cấu trúc và chức năng của máy tính
1.2.1. Cấu trúc tổng quát của máy tính
Máy tính là một hệ thống phức tạp với hàng triệu thành phần điện tử cơ sở.
Ở mức đơn giản nhất, máy tính có thể được xem như một thực thể tương tác
theo một cách thức nào đó với môi trường bên ngoài. Một cách tổng quát, các
mối quan hệ của nó với môi trường bên ngoài có thể phân loại thành các thiết
bị ngoại vi hay đường liên lạc.
Hình 1: Cấu trúc tổng quát của máy tính
 Thành phần chính, quan trọng nhất của máy tính là Đơn vị xử lý trung

Các thành phần khác của máy tính:
 Bộ nhớ chính: Dùng để lưu trữ dữ liệu.
 Các thành phần nhập xuất: Dùng để di chuyển dữ liệu giữa máy tính và
môi trường bên ngoài.
 Các thành phần nối kết hệ thống: Cung cấp cơ chế liên lạc giữa CPU,
bộ nhớ chính và các thành phần nhập xuất.
1.2.2. Chức năng của máy tính
Một cách tổng quát, một máy tính có thể thực hiện bốn chức năng cơ bản
sau:
- Di chuyển dữ liệu
- Điều khiển
- Lưu trữ dữ liệu
- Xử lý dữ liệu
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
9
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Hình 4: Các chức năng cơ bản của máy tính
 Xử lý dữ liệu: Máy tính phải có khả năng xử lý dữ liệu. Dữ liệu có thể
có rất nhiều dạng và phạm vi yêu cầu xử lý cũng rất rộng. Tuy nhiên chỉ có
một số phương pháp cơ bản trong xử lý dữ liệu.
 Lưu trữ dữ liệu: Máy tính cũng cần phải có khả năng lưu trữ dữ liệu.
Ngay cả khi máy tính đang xử lý dữ liệu, nó vẫn phải lưu trữ tạm thời tại mỗi
thời điểm phần dữ liệu đang được xử lý. Do vậy cần thiết phải có chức năng
lưu trữ ngắn hạn. Tuy nhiên, chức năng lưu trữ dài hạn cũng có tầm quan
trọng tương đãng đối với dữ liệu cần được lưu trữ trên máy cho những lần cập
nhật và tìm kiếm kế tiếp.
 Di chuyển dữ liệu: Máy tính phải có khả năng di chuyển dữ liệu giữa nó
và thế giới bên ngoài. Khả năng này được thể hiện thông qua việc di chuyển
dữ liệu giữa máy tính với các thiết bị nối kết trực tiếp hay từ xa đến nó. Tùy
thuộc vào kiểu kết nối và cự ly di chuyển dữ liệu, mà có tiến trình nhập xuất

tr÷ d÷
liÖu
Xö lý

liÖu
11
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
 Máy tính được dùng để xử lý dữ liệu thông qua các thao tác trên dữ
liệu lưu trữ hoặc kết hợp giữa việc lưu trữ và liên lạc với môi trường bên
ngoài.
Hình 7: Máy tính – Thiết bị xử lý dữ liệu lưu trữ
Hình 8: Máy tính – Thiết bị xử lý/ trao đổi dữ liệu với môi trường ngoài
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
12
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
CHƯƠNG 2: MẠNG MÁY TÍNH
Mạng máy tính là một hệ thống kết nối các máy tính đơn lẻ thông qua các
đường truyền vật lý theo một kiến trúc nào đó.
Đường truyền vật lý dùng để chuyển các tín hiệu số hay tín hiệu tương tự
giữa các máy tính. Đường truyền vật lý thường là:
- Đường dây điện thoại thông thường.
- Cáp đồng trục.
- Sóng vô tuyến điện từ.
- Cáp sợi quang
2.1. Lịch sử phát triển mạng máy tính
Mạng máy tính bắt nguồn từ đề án ARPANET (Advanced Research
Project Agency Network ) khởi sự trong năm 1969 bởi bộ quốc phòng Mỹ
nhằm mục đích thiết kế một mạng WAN có khả năng tự bảo tồn chống lại sự
phá hoại một phân mạng bằng chiến tranh nguyên tử
Từ những năm 60, đã xuất hiện những mạng nối các máy tính và các

Từ thập kỷ 80 trở đi: Việc kết nối mạng máy tính đã bắt đầu được thực
hiện rộng rãi nhờ tỷ lệ giữa giá thành máy tính và chi phí truyền tin đã giảm đi
rõ rệt do sự bùng nổ của các thế hệ máy tính cá nhân.
2.2. Nhu cầu và mục đích của việc kết nối các máy tính thành
mạng
Việc nối máy tính thành mạng từ lâu đã trở thành một nhu cầu khách quan
bởi vì:
– Có rất nhiều công việc về bản chất là phân tán hoặc về thông tin, hoặc
về xử lý hoặc cả hai đòi hỏi có sự kết hợp truyền thông với xử lý hoặc sử dụng
phương tiện từ xa
– Chia sẻ các tài nguyên trên mạng cho nhiều người sử dụng tại một thời
điểm (ổ cứng, máy in, ổ CD ROM )
– Nhu cầu liên lạc, trao đổi thông tin nhờ phương tiện máy tính
– Các ứng dụng phần mềm đòi hòi tại một thời điểm cần có nhiều người
sử dụng, truy cập vào cùng một cơ sở dữ liệu.
Chính vì vậy, việc kết nối các máy tính thành mạng nhằm mục đích:
 Chia sẻ tài nguyên:
- Chia sẻ dữ liệu: Về nguyên tắc, bất kỳ người sử dụng nào trên mạng
đều có quyền truy nhập, khai thác và sử dụng những tài nguyên chung của
mạng (thường được tập trung trên một Máy phục vụ – Server) mà không phụ
thuộc vào vị trí địa lý của người sử dụng đó.
- Chia sẻ phần cứng: Tài nguyên chung của mạng cũng bao gồm các máy
móc, thiết bị như: Máy in (Printer), Máy quét (Scanner), Ổ đĩa mềm (Floppy),
Ổ đĩa CD (CD Rom), … được nối vào mạng. Thông qua mạng máy tính,
người sử dụng có thể sử dụng những tài nguyên phần cứng này ngay cả khi
máy tính của họ không có những phần cứng đó.
 Duy trì và bảo vệ dữ liệu: Một mạng máy tính có thể cho phép các dữ
liệu được tự động lưu trữ dự phòng tới một trung tâm nào đó trong mạng.
Công việc này là hết sức khó khăn và tốn nhiều thời gian nếu phải làm trên
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10

Các đặc trưng cơ bản của đường truyền là giải thông (bandwidth), độ suy
hao và độ nhiễu điện từ.
- Dải thông của một đường truyền chính là độ đo phạm vi tần số mà nó
có thể đáp ứng được; nó biểu thị khả năng truyền tải tín hiệu của đường
truyền. Tốc độ truyền dữ liệu trên đường truyền được gọi là thông lượng
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
16
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
(throughput) của đường truyền, thường được tính bằng số lượng bit được
truyền đi trong một giây (bps). Thông lượng còn được đo bằng một đơn vị
khác là Baud, Baud biểu thị số lượng thay đổi tín hiệu trong một giây. Hai đơn
vị Baud và bps không phải lúc nào cũng đồng nhất vì mỗi thay đổi tín hiệu có
thể tương ứng với vài bit. Giải thông của cáp truyền phụ thuộc vào độ dài cáp
(nói chung cáp ngắn có thể có giải thông lớn hơn so với cáp dài). Bởi vậy, khi
thiết kế cáp cho mạng cần thiết phải chỉ rõ độ dài chạy cáp tối đa vì ngoài giới
hạn đó chất lượng truyền tín hiệu không còn được đảm bảo.
- Độ suy hao của một đường truyền là độ đo sự yếu đi của tín hiệu trên
đường truyền đó, nó cũng phụ thuộc vào độ dài cáp. Còn độ nhiễu điện từ
EMI (Electromagnetic Intrerference) gây ra bởi tiếng ồn từ bên ngoài làm ảnh
hưởng đến tín hiệu trên đường truyền
Thông thuờng người ta hay phân loại đường truyền theo hai loại:
• Đường truyền hữu tuyến: các máy tính được nối với nhau bằng các dây
cáp mạng. Đường truyền hữu tuyến gồm có:
- Cáp đồng trục (Coaxial cable)
- Cáp xoắn đôi (Twisted pair cable) gồm 2 loại có bọc kim (stp –
shielded twisted pair) và không bọc kim (utp – unshielded twisted pair).
- Cáp sợi quang (Fiber optic cable)
• Đường truyền vô tuyến: các máy tính truyền tín hiệu với nhau thông
qua các sóng vô tuyến với các thiết bị điều chế/giải điều chế ở các đầu mút.
Đường truyền vô tuyến gồm có:

gọi là giao thức của mạng (Network Protocol).
2.3.3.1. Hình trạng mạng
Hình trạng mạng là cách kết nối các máy tính với nhau về mặt hình học
mà ta gọi là topo của mạng.
Có 2 kiểu nối mạng chủ yếu là điểm – điểm (point to point) và điểm – đa
điểm (point to multipoint).
- Theo kiểu điểm – điểm: Các đường truyền nối từng cặp nút với nhau và
mỗi nút đều có trách nhiệm lưu trữ tạm thời sau đó chuyển tiếp dữ liệu đi cho
tới đích. Một số mạng có cấu trúc điểm – điểm như: mạng hình sao, mạng chu
trình, mạng dạng cây
- Theo kiểu điểm – đa điểm: Tất cả các nút phân chia chung một đường
truyền vật lý. Dữ liệu gửi đi từ một nút nào đó sẽ có thể được tiếp nhận bởi tất
cả các nút còn lại. Bởi vậy cần chỉ ra địa chỉ đích của dữ liệu để mỗi nút căn
cứ vào đó kiểm tra xem dữ liệu có phải gửi cho mình hay không. Mạng trục
tuyến tính (Bus), mạng hình vòng (Ring), mạng Satellite (Vệ tinh) hay
Radio là những mạng có cấu trúc điểm – đa điểm phổ biến.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
18
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Những hình trạng mạng cơ bản này sẽ được giới thiệu rõ hơn trong mục
phân loại mạng máy tính theo hình trạng mạng.
2.3.3.2. Giao thức mạng
Việc trao đổi thông tin dù là đơn giản nhất, cũng phải tuân theo những quy
tắc nhất định. Đơn giản như khi hai người nói chuyện với nhau muốn cho
cuộc nói chuyện có kết quả thì ít nhất cả hai cũng phải ngầm hiểu và tuân thủ
quy ước: khi một người nói thì người kia phải nghe và ngược lại. Việc truyền
thông trên mạng cũng vậy, cần có các quy tắc, quy ước truyền thông về nhiều
mặt: khuôn dạng cú pháp của dữ liệu, các thủ tục gửi, nhận dữ liệu, kiểm soát
hiệu quả và chất lượng truyền tin Tập hợp những quy tắc quy ước truyền
thông đó được gọi là giao thức của mạng (Network Protocol).

Mạng máy tính có thể phân bổ trên một vùng lãnh thổ nhất định và cũng có
thể phân bổ trong phạm vi một quốc gia hay rộng hơn nữa là toàn thế giới.
Dựa vào phạm vi phân bổ của mạng, người ta có thể phân ra các loại mạng
như sau:
2.4.1.1. Mạng toàn cầu (GAN – Global Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính từ các châu lục khác nhau. Thông thường kết
nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông và vệ tinh.
2.4.1.2. Mạng diện rộng (WAN – Wide Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính trong nội bộ các quốc gia hay giữa các quốc
gia trong cùng một châu lục. Thông thường các kết nối này được thực hiện
thông qua mạng viễn thông. Các WAN có thể kết nối với nhau tạo thành GAN
hay tự nó cũng có thể xem là một GAN.
2.4.1.3. Mạng đô thị (MAN – Metropolitan Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính trong phạm vi một đô thị, một trung tâm văn
hoá xã hội, có bán kính tối đa vào khoảng 100 km. Kết nối này được thực hiện
thông qua môi trường truyêng thông tốc độ cao (50–100 Mbps).
2.4.1.4. Mạng cục bộ (LAN – Local Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính trong một khu vực bán kính hẹp, thông
thường khoảng vài trăm mét đến vài kilômét. Kết nối được thực hiện thông
qua môi trường truyền thông tốc độ cao Ví Dụ như cáp đồng trục, cáp xoắn
đôi hay cáp quang. LAN thường được sử dụng trong nội bộ một cơ quan, tổ
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
20
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
chức, trong một tòa nhà. Nhiều LAN có thể được kết nối với nhau thành
WAN.
2.4.2. Phân loại theo kỹ thuật chuyển mạch áp dụng trong mạng
Nếu lấy kỹ thuật chuyển mạch làm yếu tố chính để phân loại ta sẽ có:
- Mạng chuyển mạch kênh
- Mạng chuyển mạch thông báo

tạm thời cao và ảnh hưởng đến thời gian trả lời yêu cầu của các trạm.
2.4.2.3. Mạng chuyển mạch gói (Packet Switched Network)
Hình 13: Mạng chuyển mạch gói
Trong trường hợp này mỗi thông báo được chia ra thành nhiều phần nhỏ
hơn gọi là các gói tin (Information Packet) có khuôn dạng quy định trước.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
22
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Mỗi gói tin cũng chứa các thông tin điều khiển, trong đó có địa chỉ nguồn và
địa chỉ đích của gói tin. Các gói tin thuộc về một thông báo nào đó có thể
được gửi đi qua mạng để tới đích bằng nhiều con đường khác nhau.
Phương pháp chuyển mạch thông báo và chuyển mạch gói là gần giống
nhau. Điểm khác biệt là các gói tin được giới hạn kích thước tối đa sao cho
các nút mạng (các nút chuyển mạch) có thể xử lý toàn bộ gói tin trong bộ nhớ
mà không phải lưu giữ tạm thời trên đĩa. Bởi vậy nên mạng chuyển mạch gói
truyền dữ liệu hiệu quả hơn so với mạng chuyển mạch thông báo.
Tích hợp hai kỹ thuật chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói vào trong
một mạng thống nhất được mạng tích hợp số (ISDN – Integated Services
Digital Network).
2.4.3. Phân loại theo hình trạng mạng
Khi phân loại theo hình trạng mạng, người ta thường phân loại thành:
Mạng hình sao, hình vòng, trục tuyến tính, hình cây, Dưới đây là một số
hình trạng mạng cơ bản:
2.4.3.1. Mạng hình sao
Mạng hình sao có tất cả các trạm được kết nối với một thiết bị trung tâm có
nhiệm vụ nhận tín hiệu từ các trạm và chuyển đén trạm đích. Tuỳ theo yêu cầu
truyền thông trên mạng mà thiết bị trung tâm có thể là bộ chuyển mạch
(switch), bộ chọn đường (Router) hoặc là bộ phân kênh (hub). Vai trò của
thiết bị trung tâm này là thực hiện việc thiết lập các liên kết điểm–điểm
(point–to–point) giữa các trạm.

2.4.3.3. Mạng trục tuyến tính (Bus)
Trong mạng trục tất cả các trạm phân chia một đường truyền chung (bus).
Đường truyền chính được giới hạn hai đầu bằng hai đầu nối đặc biệt gọi là
terminator. Mỗi trạm được nối với trục chính qua một đầu nối chữ T (T–
connector) hoặc một thiết bị thu phát (transceiver).
Hình 17: Mạng trục tuyến tính (Bus)
Khi một trạm truyền dữ liệu tín hiệu được quảng bá trên cả hai chiều của
bus, tức là mọi trạm còn lại đều có thể thu được tín hiệu đó trực tiếp. Đối với
các bus một chiều thì tín hiệu chỉ đi về một phía, lúc đó các terminator phải
được thiết kế sao cho các tín hiệu đó phải được dội lại trên bus để cho các
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status