khảo sát tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ở thành phố bạc liêu - Pdf 11

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐÔ
KHOA SINH HỌC ỨNG DỤNG

 LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
MÃ SỐ: 304 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC VÀ
HÓA CHẤT TRONG NUÔI TÔM SÚ THÂM
CANH Ở THÀNH PHỐ BẠC LIÊU
Sinh viên thực hiện

LÊ KIỀU LAM

MSSV: 0753040046
LỚP: NTTS K2

Cán bộ hướng dẫn Sinh viên thực hiện
Th.S TẠ VĂN PHƯƠNG LÊ KIỀU LAM
MSSV: 0753040046
LỚP: NTTS K2
Cần Thơ, 2011
3

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian thực tập, áp dụng những kiến thức đã học kết hợp với kinh
nghiệm thực tế, nay luận văn đã được chỉnh sửa và hoàn thành.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Tạ Văn Phương - Khoa Sinh Học
Ứng Dụng - Trường Đại Học Tây Đô đã tận tình chỉ dạy cho em suốt thời gian làm đề
tài.
Em xin chân thành cảm ơn đã tận tình dạy bảo, truyền đạt cho em những kiến thức
quý báu trong những năm học vừa qua, tạo dựng hành trang để em bước vào cuộc
sống sau này.
Xin cảm ơn tất cả các bạn trong tập thể lớp NTTS K2 đã tận tình giúp đỡ và đóng góp
ý kiến bổ ích để hoàn thành thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng em xin chúc quý Thầy Cô - Khoa Sinh Học Ứng Dụng - Trường Đại Học
Tây Đô vui, khỏe, công tác tốt và không ngừng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục.
Với sự hiểu biết còn hạn hẹp và thu thập tài liệu còn hạn chế nên báo cáo tốt nghiệp


Tôi xin cam kết luận văn này được hoàn thành dựa trên các kết quả nghiên cứu của tôi
và các kết quả nghiên cứu này chưa được dùng cho bất cứ luận văn cùng cấp nào
khác. LÊ KIỀU LAM Cần thơ, ngày tháng năm 2011

6

TÓM TẮT
Diện tích nuôi tôm ở Bạc Liêu trong những năm gần đây có xu hướng tăng, làm cho
môi trường ngày càng xấu đi là điều kiện thuận lợi để dịch bệnh lây lan khó kiểm soát,
do đó vấn đề:“ Sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ở Thành phố
Bạc Liêu“ đã được thực hiện từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2011. Đề tài đã phỏng vấn
trực tiếp 30 hộ nuôi tôm sú thâm canh, theo bảng câu hỏi soạn sẵn với những nội dung
về tình hình sử dụng thuốc và hóa trong nuôi tôm.
Qua kết quả điều tra cho thấy, người dân thả nuôi 2 vụ/năm, 100% số hộ thả nuôi vụ
1, 90% số hộ thả vụ 2. Phần lớn người dân nuôi tôm đều ở độ tuổi trung niên chiếm
76,6%. Kinh nghiệm nuôi trên 9 năm chiếm 40%, kinh nghiệm nuôi 6 - 9 năm và nhỏ
hơn 6 năm chiếm 30%, đa số người dân nuôi theo kinh nghiệm chiếm 87%. Lao động
tham gia sản xuất trong đó lao động gia đình chiếm 60%, lao động thuê chiếm 40%.

Trang
LỜI CẢM TẠ i
CAM KẾT KẾT QUẢ ii
CÁC CHỮ VIẾT TẮT iii
TÓM TẮT iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH CÁC BẢNG vii
DANH SÁCH CÁC HÌNH viii
CHƯƠNG I 1
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Mục tiêu nghiên cứu 2
Nội dung nghiên cứu 2
CHƯƠNG II 3
TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Tổng quan tình hình phát triển nghề nuôi tôm sú 3
2.1.1. Tình hình nghề nuôi tôm trên thế giới 3
2.1.2. Tình hình nghề nuôi tôm sú ở Việt Nam 4
2.2. Đặc điểm sinh học tôm sú 5
2.2.1. Phân loại và hình thái 5
2.2.2. Phân bố 6
2.2.3. Khả năng thích nghi với môi trường 6
2.2.4. Tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng 7
2.2.5. Sinh trưởng 8
2.2.6. Sinh sản 8
2.3. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của thành phố Bạc Liêu 9
2.3.1. Điều kiện tự nhiên 9
2.3.1.1. Vi trí địa lý 9
2.3.1.2. Địa hình 9
2.3.1.3. Khí hậu 9
2.3.2. Tài nguyên thiên nhiên 9

4.1.5. Tổng diện tích ao nuôi 27
4.1.6. Ao lắng và diện tích ao lắng 28
4.1.7. Phương pháp và thời gian cải tạo 28
4.1.8. Mật độ và kích cỡ giống thả nuôi 29
4.1.9. Nguồn giống và giá giống 31
4.1.10. Thức ăn và hệ số chuyển hóa thức ăn 32
4.1.11. Thời gian nuôi, tỷ lệ sống và năng suất 34
4.1.12. Chi phí sản xuất trong nuôi tôm công nghiệp tại Thành phố Bạc Liêu 35
4.1.13. Thu nhập và lợi nhuận của mô hình nuôi 36
4.1.14. Các bệnh thường gập ở tôm nuôi 37
4.1.15. Hướng giải quyết của hộ nuôi 38
4.2. Phân tích tình hình sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm 39
4.2.1. Thuốc và hóa chất diệt khuẩn trong cải tạo ao nuôi 39
4.2.2. Nhóm khoáng thiên nhiên 40
4.2.3. Nhóm hóa chất quản lý nước và phòng trừ dịch bệnh 41
4.2.4. Nhóm hóa chất gây màu nước 41
4.2.5. Các loại chất dinh dưỡng bổ sung vào thức ăn 42
4.2.6. Nhóm chế phẩm sinh học (CPSH) 43
CHƯƠNG V 45
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 45
5.1. Kết luận 45
5.2. Đề xuất 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46
PHỤ LỤC A A


10

DANH SÁCH HÌNH

Trang
Hình 2.1 Tôm sú 5
Hình 2.2 Vòng đời của P.monodon theo Motoh (19819) 8
Hình 4.1 Năm kinh nghiệm nuôi và trình độ chuyên môn trong nuôi tôm thâm canh 27
Hình 4.2 Lao động tham gia sản xuất 28
Hình 4.3 Thời gian cải tạo trong nuôi tôm sú 30
Hình 4.4 Mật độ và kích cỡ giống thả nuôi 32
Hình 4.5 Tỷ lệ nguồn gốc và giá tôm giống được nông hộ thả nuôi 33
Hình 4.6 Mối liên hệ giữa hệ số thức ăn và độ đạm 35
Hình 4.7 Mối quan hệ, tỷ lệ sống và năng suất của tôm sú 37
Hình 4.8 Các bệnh thường gặp trên tôm nuôi 40
Hình 4.9 Nhóm vitamin, khoáng, premix và lipid sử dụng trong quá trình nuôi tôm 44
Hình 4.10 Nhóm chế phẩm sinh học sử dụng trong mô hình nuôi tôm thâm canh 46

tồn lưu trong sản phẩm, mất cân bằng sinh thái ao nuôi. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc
và hoá chất chưa tốt của người nuôi sẽ làm tăng chi phí sản xuất, không đảm bảo chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến người tiêu dùng và xuất khẩu cũng
như sức khỏe của người nuôi. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài:“ khảo sát tình hình sử
dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm sú thâm canh ở Thành phố Bạc Liêu” đã
được thực hiện. 12

Mục tiêu đề tài
Mục tiêu chung của đề tài nhằm làm cơ sở khoa học giúp nghề nuôi tôm phát triển
một cách hiệu quả và bền vững trong nuôi tôm Sú theo định hướng bảo vệ môi trường
và sản xuất sản phẩm có chất lượng an toàn.
Nội dung nghiên cứu
Khảo sát tình hình sử dụng thuốc và hóa chất.
Tổng quan về thuốc và hóa chất sử dụng phổ biến trong nuôi tôm sú.


Năm 1995, nghề nuôi tôm trên thế giới tăng trưởng chậm lại do dịch bệnh virus xảy ra
trên toàn cầu. Dù thế, sản lượng vẫn tăng do nhiều công nghệ mới đã được áp dụng.
Theo thống kê của FAO (1998) thì sản lượng tôm nuôi toàn cầu năm 1996 đạt
900.000 tấn. Châu Á là nơi nuôi tôm chủ yếu, chiếm 84% sản lượng nuôi tôm mỗi
năm (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Theo số liệu thống kê cho
thấy sản lượng nuôi tôm trên thế giới giảm dần từ 733.000 tấn/năm 1994 còn 712.000
tấn/năm 1995, tiếp theo 693.000 tấn/năm 1996 và đến năm 1997 chỉ còn 600.000 tấn
(World shrimp farming,1997; trích dẫn bởi Nguyễn văn Hảo, 1999).
Theo thống kê của FAO (2008) thì sản lượng tôm sú nuôi tăng từ 21.000 tấn năm
1981 đến 200 tấn năm 1988 và đạt 500.000 tấn năm 1993 và khoảng 575.000 tấn năm
1995. Sản lượng tôm biển trên thế giới đã gia tăng rất nhanh, vào năm 1990 sản lượng
tôm biển trên thế giới là 632.400 tấn đến năm 2000 thì sản lượng này tăng lên là
1.087.900 tấn (Lê Xuân Sinh, 2002). Nuôi trồng thủy sản trên thế giới tăng rất nhanh
với tốc độ 7,6%, đạt khoảng 37,5 triệu tấn vào năm 2001, chiếm 29,1% tổng sản
lượng thủy sản. Trong đó, năm 2002 sản lượng giảm chỉ còn khoảng 630.000 tấn do
sự cạnh tranh của tôm thẻ chân trắng từ Thái Lan và Indonesia và tăng nhanh đạt
ngưỡng 740.000 tấn năm 2003. Từ năm 2004 sản lượng tôm sú nuôi giảm dần còn
14

khoảng 670.000 tấn/năm. Theo thống kê của FAO (2009) sản lượng tôm sú trên thế
giới gần như chững lại và có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây, đạt dưới
600.000 tấn năm 2007 (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Trong các
loài tôm nuôi cho thấy, tôm sú là quan trọng và được nuôi rộng rãi nhất, sản lượng
tôm sú chiếm 50% tổng sản lượng thủy sản, tiếp theo là tôm chân trắng với 25% sản
lượng (FAO,1998).
Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng sản lượng tôm nuôi nói chung và phát triển đa dạng
các hình thức nuôi: quảng canh, bán thâm canh, thâm canh và siêu thâm canh có thể
lên đến 300 - 400 con/m
2
(Brigges et al., 2005). Đã dẫn đến nhiều tiêu cực: tác động

1980 và bán thâm canh và thâm canh từ những năm 1985 đến nay. Các mô hình nuôi
tôm ở ĐBSCL cũng rất đa dạng gồm nuôi quảng canh cải tiến đơn (trên 300.000 ha),
tôm – lúa luân canh (hơn 100.000 ha), tôm rừng (hơn 29.000 ha mặt nước) và tôm bán
thâm canh phát triển nhanh chóng về diện tích (Nguyễn Minh Niên, 2005). Theo kế
hoạch 2010 cả ĐBSCL sẽ có khoảng 492.067 ha, trong đó các mô hình quảng canh cải
tiến chiếm 375.000 ha, nuôi bán thâm canh chiếm khoảng 65.067 ha và nuôi thâm
canh đạt 52.000 ha (World Bank /Ministry of Fisheries, 2006; trích dẫn bởi Trần Ngọc
Hải và Nguyễn Thanh Phương).
Bên cạnh đó, các mô hình nuôi kết hợp và thân thiện với môi trường như nuôi kết hợp
với rừng ngập mặn, nuôi tôm luân canh trên ruộng lúa, nuôi tôm kết hợp với các đối
tượng thủy sản khác như cá, cua, nhuyễn thể, đang được tiếp tục duy trì và đẩy mạnh
nghiên cứu để cải thiện năng suất và hiệu quả, góp phần phát triển đa dạng mô hình và
đối tượng nuôi, cũng như nghề nuôi tôm phát triển bền vững.
2.2. Đặc điểm sinh học tôm Sú
2.2.1. Phân loại và hình thái
Tôm sú (Penaeus monodon) có 7 - 8 răng trên chủy và 3 - 4 răng dưới chủy, chủy
thẳng nhô lên. Sống gan nghiêng, gai đuôi có rảnh nhưng không có gai bên. Phần đầu
ngực và phần bụng có những băng đen ngang, chân ngực màu đỏ. Đây là loài có kích
thuớc lớn nhất trong họ tôm he và giá trị kinh tế rất cao. (Trần Ngọc Hải và Nguyễn
Thanh Phương, 2009).
Tôm sú
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ: Crustacea
Lớp: Malacostraca
Lớp phụ: Eumalacostraca
Tổng bộ: Eucarida
Bộ: Decapoda
Bộ phụ: Dendrobranchiata Bate, 1888
Tổng họ: Penaeoidea
Họ: Penaeidae

0
C, dưới 15
0
C và trên 35
0
C,
tôm hoạt động không bình thường và có thể dẫn đến tôm chết hàng loạt. Đối với tôm
sú, chất đáy thích hợp là bùn cát (Nguyễn Văn Chung, 2000).
Tôm Sú thích sống với môi trường có độ pH từ 7,5 – 8,5 độ pH ngoài giới hạn này sẽ
gây bất lợi cho đời sống của tôm (Đoàn Khắc Độ, 2008). Nước có độ pH dưới 4 hay
trên 10 có thể gây chết tôm. Khoảng thích hợp cho tôm là 7 – 9 (Trần Ngọc Hải và
Nguyễn Thanh Phương, 2009).
Độ mặn: Khả năng chịu đựng và thích nghi độ mặn khác nhau tùy theo loài tôm.
Thông thường các loài nuôi có khả năng chịu đựng độ mặn 5 - 10 ‰ hay thấp hơn .Độ
mặn cao 45 - 60‰ có thể gây chết tôm. Hầu hết các loài tôm tăng trưởng tốt ở độ mặn
Hình 2.1: Tôm Sú
17

25 - 30‰ (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Tôm Sú có khả năng
chịu đựng độ mặn thấp đến 0‰, nếu độ mặn cao trên 40‰ thì khả năng sống của
chúng giảm, đặc biệt đối với ấu trùng. Nhìn chung tôm sinh trưởng ở độ muối từ 15 -
25 ‰ (Chu Thị Thơm và csv, 2005).
Nhiệt độ: Theo Chanratchakool và csv (1994), nhiệt độ cao hơn 32 - 34
0
C hay thấp
hơn 25
0
C khả năng bắt mồi của tôm có thể giảm 20 - 50%. Nhiệt độ thích hợp đối với
sự phát triển của tôm bột và tôm trưởng thành là 25 - 30
0

S trong nước từ 0,01mg/lít cũng đủ gây độc cho tôm, do đó cần
hạn chế đến mức tối đa. Thay nước hoặc bón vôi để làm giảm khí H
2
S trong nước
(Đoàn Khắc Độ, 2008). Khí H
2
S rất độc đối với tôm, khí này ở bất kì nồng độ nào nếu
có cũng ảnh hưởng bất lợi đối với tôm (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương,
2009).
Ammonia: Ở dạng khí NH
3
rất độc, hàm lượng khí nếu lớn hơn 1mg/l có thể gây chết
tôm nhưng hàm lượng trên 0,1% mg/l cũng gây ảnh hưởng bất lợi ở pH bằng 9 và độ
mặn 20‰. Nitrite: Thông thường hàm lượng nitrite trong ao nuôi không cao đến mức
gây chết tôm nhưng nồng độ cao 4 - 5 mg/l có thể ảnh hưởng bất lợi đến tôm (Trần
Ngọc Hải và Nguyễn Thanh Phương, 2009). Hàm lượng NH
4
trên 0,1mg/lít là có thể
gây độc cho tôm. Để giảm lượng NH
4
, có thể thay nước hoặc sục khí (Đoàn Khắc Độ,
2008).
2.2.4. Tính bắt mồi và nhu cầu dinh dưỡng
Tôm sú thuộc loài ăn tạp, thức ăn ưa thích là côn trùng, giáp xác, thực vật, giun nhiều
tơ, mảnh vụn hữu cơ, qua kiểm tra thành phần thức ăn trong dạ dày cho thấy tôm sú
thích các động vật sống hơn là giáp xác thối rữa hay mảnh vụn hữu cơ. Khi nuôi trong
18

ao, loại thức ăn tốt nhất cho tôm sú là thức ăn viên công nghiệp, thức ăn tươi sống
hoặc thức ăn tự chế biến (Đoàn Khắc Độ, 2008).

kì sinh sản khi đạt từ 8 tháng tuổi trở lên. Dấu hiệu nhận biết tôm cái thành thục là có
túi tinh ở cơ quan sinh dục phụ, còn với tôm đực là tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh.
19

Giao phối: Tôm cái thành thục và có trứng chín thì xảy ra hiện tượng lột xác, sau đó
con đực và con cái sẽ giai phối. Đẻ trứng: Tôm sú đẻ trứng vào ban đêm, thường đẻ
vào khoảng 22 giờ đến 2 giờ. Tôm thường đẻ trứng ở phần đầu ngực và 3 đốt đầu tiên
của thân, số lượng trứng tùy thuộc vào chất lượng của buồng trứng và kích cỡ tôm mẹ
(tôm càng lớn thì trứng càng nhiều). Bình thường mỗi cá thể đẻ trung bình từ 500.000
- 1.000.000 trứng. Nếu tôm được cắt mắt và nuôi vỗ trong bể xi măng thì cho lượng
trứng 200.000 - 600.000 trứng /1 tôm cái. Trứng nở thành ấu trùng: ở nhiệt độ 27 -
28
0
C trứng sẽ nở thành ấu trùng (Nauplius) sau khoảng 14 - 15 giờ đẻ. Từ ấu trùng
đến tôm trưởng thành trải qua các giai đoạn: Nauplius, zoae, mysis, postlarvae, tiền
trưởng thành rồi đến trưởng thành (Đoàn Khắc Độ, 2008).
2.3. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của Thành phố Bạc Liêu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Vị trí địa lý
Bạc Liêu là tỉnh thuộc Khu vực ĐBSCL nằm phía Đông Bắc của bán đảo Cà Mau.
Phía Bắc giáp tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang. Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng.
Tây và Tây Nam giáp tỉnh Cà Mau. Đông và Đông Nam giáp biển đông.
2.3.1.2. Ðịa hình
Bạc Liêu có địa hình tương đối bằng phẳng, chủ yếu nằm ở độ cao trên dưới 1,2m so
với mặt biển, còn lại là những giồng cát và một số khu vực trũng ngập nước quanh
năm. Địa hình có xu hướng dốc từ bờ biển vào nội đồng, từ Đông Bắc xuống Tây
Nam. Trên địa bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp, Cạnh
Đền, Phó Sinh, Giá Rai (http:// điều kiện tự nhiên của Bạc Liêu.com.vn, 2010).
2.3.1.3. Khí hậu
Bạc Liêu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ

2
. Động vật biển bao gồm 661 loài cá,
319 giống thuộc 138 họ, trong đó nhiều loại có trữ lượng và giá trị cao như tôm, cá
hồng, cá gộc, cá sao, cá thu, cá chim, cá đường,… Tôm biển có 33 loài khác nhau, có
thể đánh bắt hơn 10.000 tấn/năm. Trữ lượng cá đáy và cá nổi hơn 100.000 tấn/năm, có
thể trở thành nơi xuất, nhập khẩu trực tiếp.
2.3.2.4. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở tỉnh Bạc Liêu
Theo báo cáo của trung tâm khuyến nông - khuyến ngư Bạc Liêu diện tích nuôi trồng
thủy sản toàn tỉnh đến cuối năm 2009 là 124.190 ha, trong đó diện tích hiện đang nuôi
64.542 ha (đang có tôm 64.310 ha, trong đó tôm công nghiệp 1.501 ha, cá và thủy sản
khác 232 ha) bảng 2.1. Diện tích nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp chưa thả
giống 720 ha, diện tích đang thả giống 3.323 ha (trong đó tôm CN và BCN 15 ha), thu
hoạch 13.156 ha, sản lượng 545 tấn (tôm 367 tấn, cá và thủy sản khác 178 tấn).
Tổng diện tích đất tự nhiên trên toàn tỉnh là 258.246,6 ha. Diện tích NTTS liên tục
tăng qua các năm từ 2005 – 2010. Năm 2005 diện tích đất NTTS toàn tỉnh là 118,71
ha đến năm 2010 đã lên đến 126,3 nghìn ha và theo kế hoạch của tỉnh sẽ tiếp tục mở
rộng diên tích NTTS đến 128 nghìn ha (sở NN & PTNT Bạc Liêu).
Tuy gặp nhiều trở ngại về dịch bệnh nhưng sản lượng tôm NTTS vẫn ngày càng tăng
(ngoại trừ năm 2006 sản lượng có giảm đi nhưng lại tiếp tục tăng trở lại vào các năm
tiếp theo. Năm 2009, sản lượng tôm NTTS đã đạt được 67,7 nghìn tấn. Tỉnh dự định
con số này sẽ tăng lên 87,7 nghìn tấn vào năm 2015 (sở NN & PTNT Bạc Liêu). 21 Bảng 2.2 Báo cáo tiến độ sản xuất đến ngày 31/12/2009 (Sở NN & PTNT BL)

2.4.2. Sơ lược một số loại bệnh và cách phòng trị trên tôm Sú
Việc phát triển quy mô thâm canh trong nghề nuôi tôm hiện nay đang đối mặt với
nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm và gây ra không ít tổn thất cho người nuôi tôm ở nhiều
quốc gia. Trong đó một số loại bệnh phổ biến và nguy hiểm như đốm trắng (WSSV),
22

bệnh còi (MBV), đầu vàng (YHV), Hội chứng Taura (TSV), phát sáng, vi khuẩn, bệnh
do dinh dưỡng và môi trường.

2.4.2.1. Các virus gây bệnh gan tụy
Bệnh MBV (Monodon baculovirus) ở tôm Sú
Bệnh MBV được phát hiện đầu tiên từ 1980 ở đàn tôm sú (Penaeus monodon) đưa từ
Đài Loan đến Mexico (Lightner, 1983). Tiếp theo là các nhà nghiên cứu phát hiện
bệnh MBV có xuất phát từ Đài Loan, Philippines, Malaysia, Polynesia thuộc Pháp,
Singapore, Indonesia, Thái Lan, Trung Quốc,… Ở Đài Loan bệnh MBV có liên quan
đến thiệt hại nghiêm trọng trong nghề nuôi tôm sú năm 1987 và 1988 (Chen, 1989).
Hiện nay bệnh phát triển ở nhiều nơi trên thế giới: châu Á, châu Phi, miền Nam châu
Âu, châu Mỹ. Tôm sú thường xuyên bị nhiễm MBV và trên nhiều loài tôm biển khác,
virus nhiễm từ postlarval đến tôm trưởng thành (Bùi Quang Tề, 2003).
Đặc điểm của loại virus gây bệnh này là nhân tố gây tổn thương các tế bào gan tụy
như MBV (Monodon baculovirus), HPV (Hepatopancreas parvovirus) và làm tôm dễ
mẫn cảm trước những bất lợi về môi trường hay các bệnh khác. Ở Việt Nam từ tháng
10 - 11/1994 Bùi Quang Tề lần đầu tiên đã nghiên cứu về mức độ nhiễm bệnh MBV
trên tôm sú ở các tỉnh ven biển phía Nam: tôm sú nuôi nhiễm virus MBV khá cao:
tôm thịt ở Minh Hải 50 - 85,7%, ở Sóc Trăng 92,8%, tôm giống ở Bà Rịa - Vũng Tàu
5,5 - 31,6%, tôm giống Nha Trang 70 - 100%. Bệnh MBV là nguyên nhân làm chết
tôm hàng loạt ở các tỉnh phía Nam năm 1993 - 1994. Tiếp theo là Đỗ Thị Hòa từ
tháng 4/1994 - 7/1995 cũng đã nghiên cứu bệnh MBV trên tôm sú nuôi ở các tỉnh
Nam Trung Bộ, kết quả cho thấy: tỷ lệ nhiễm virus ở ấu trùng tôm sú là 33,8%, tôm
giống là 52,5%, tôm thịt là 66,5%. Năm 1995 sơ bộ điều tra bệnh tôm sú ở các tỉnh

hiện các thể vùi ở nhân tế bào tuyến anten của tôm sú (Bùi Quang Tề, 1994) nhưng tỷ
lệ nhiễm virus thấp. Tôm sú và tôm chân trắng nuôi ở Quảng Ninh chuẩn đoán bắng
test PCR cho thấy tôm đã nhiễm bệnh IHHNV, tôm nuôi chậm lớn và không đều, tỷ lệ
tôm còi 20 – 50% (Bùi Quang Tề, 2004). Bệnh IHHNV lan truyền cả chiều đứng và
chiều ngang, virus có thể truyền từ bố mẹ sang ấu trùng hoặc lây nhiễm sang giai đoạn
sớm của ấu trùng. Phòng bệnh IHHNV tương tự như bệnh MBV, Đầu Vàng (Bùi
Quang Tề, 2006).
2.4.2.2. Các virus gây chết cấp tính
Bệnh đốm trắng(White spot syndrome virus - WSSV):
Bệnh đốm trắng được thông báo đầu tiên ở Trung Quốc trong các đầm nuôi tôm sú tỷ
lệ tôm chết rất cao (Chen,1989). Năm 1992 – 1994 ở Thái Lan, tôm nuôi bị bệnh đầu
vàng và đốm trắng thiệt hại hơn 40 triệu USD. Năm 1994 đã có các báo cáo từ Ấn Độ,
Trung Quốc, Nhật Bản và Thái Lan đã tìm ra nguyên nhân gây nên bệnh đốm trắng.
Hiện tượng tôm bệnh thường xảy ra ở tôm giống đến tôm trưởng thành của khu vực
nuôi thâm canh và quảng canh. Bệnh xảy ra khi môi trường nuôi xấu bệnh dễ xuất
hiện. Bênh đốm trắng xuất hiện ở nhiều động vật giáp xác tự nhiên như các loài tôm
he, tôm nước ngọt, cua, chân chèo và ấu trùng côn trùng do đó bệnh lây lan rất nhanh
chóng trong các đầm nuôi tôm (Bùi Quang Tề, 2006).
Trong những năm gần đây bệnh đốm trắng thường xuyên xuất hiện trong các khu vực
nuôi tôm ven biển ở Việt Nam. Hầu hết các tỉnh khi đã bị nhiễm đốm trắng tôm chết
hàng loạt và gây ra những tổn thất lớn cho nghề nuôi tôm. Mùa xuất hiện bệnh là mùa
24

xuân và đầu mùa hè, khi thời tiết biến đổi nhiều, như biên độ nhiệt độ trong ngày dao
động quá lớn (>5
o
C) gây sốc cho tôm. Bệnh đốm trắng xuất hiện trên tôm sú nuôi
khoảng 1 - 2 tháng và gây chết tôm. Theo Bùi Quang Tề (2003) cho biết các vùng có
đốm trắng xuất hiện mạnh: Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An,… bệnh còn
xuất hiện ở tôm, cua tự nhiên.

thật triệt để trước khi nuôi. Xử lí nước kỹ trước khi nuôi bằng chlorine 25ppm. Hạn
chế thay nước trong khi nuôi và xử lí nước thải bằng chlorine.
2.4.2.3. Bệnh do vi khuẩn
25

Bệnh đốm trắng do vi khuẩn ở tôm (bacterrial white spot syndrome – BWSS): Vi
khuẩn có khả năng là nguyên nhân gây nên bệnh đốm trắng (Wang et al, 2000) trên
tôm sú nuôi ở Malaysia. Vibrio cholerae cũng thường được nuôi cấy từ mẫu bệnh tôm
nuôi (ở Thái Lan) ở các ao có pH và độ kiềm cao và vi khuẩn là nguyên nhân cơ hội
(thứ hai). Ở Việt Nam cũng nuôi cấy được Vibrio spp từ các mẫu ở tôm sú nuôi (Bùi
Quang Tề và csv., 2003). Tôm bệnh có các đốm trắng mờ đục nhìn thấy trên vỏ khắp
cơ thể, các đốm trắng thường chỉ ở phía ngoài của lớp biểu bì và tổ chức liên kết, ít
nguy hiểm với tổ chức phía trong, các đốm trằng có thể mất đi khi tôm lột vỏ. Phòng
và trị bệnh bằng cách: Kiểm soát mật độ vi khuẩn trong nước ao nuôi. Thường xuyên
thay nước ao nuôi. Xác định vi khuẩn Bacillus subtilis trong chế phẩm vi sinh hạn chế
dùng trong ao nuôi tôm. Ao có nhiễm bệnh đốm trắng do vi khuẩn dùng vôi nung
(CaO) bón cho ao liều lượng 25ppm, để không làm tăng độ kiềm trong ao và làm tăng
pH nhanh. Dùng một số khoáng vi lượng kích thích tôm lột vỏ sẽ giảm bớt các đốm
trắng trên thân tôm (Bùi Quang Tề, 2006).
Bệnh do vi khuẩn vibrio: Vibrio spp thường gây bệnh ở động vật thủy sản nước mặn
và nước ngọt: cá, giáp xác, những vi khuẩn này thường là tác nhân cơ hội, khi động
vật thủy sản sốc do môi trường biến đổi xấu hoặc bị nhiễm các bệnh khác như virus,
nấm, ký sinh trùng, Theo nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và Việt Nam vibrio
spp tìm thấy phổ biến ở trong nước biển và ven bờ, trong nước bể ương tảo, bể ương
Artemia, trong bể ương ấu trùng (Bùi Quang Tề, 2006).
Bệnh do vi khuẩn vibrio xảy ra ở tất cả các giai đoạn. Cách phòng bệnh bằng cách vệ
sinh tẩy trùng bể và ao nuôi kỹ. Chăm sóc quản lý tốt môi trường nước nuôi, hạn chế
gây sốc, thương tích tôm. Đối với ấu trùng và PL bệnh có thể trị bằng EDTA 10-50
mg/l, formaline 10 - 25mg/l, oxytetracyline 1-10mg/l. Đối với tôm lớn dùng
Oxytetracyline 1.5g/kg thức ăn. Trị liên tiếp trong 14 ngày.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status