Ứng dụng các công cụ phái sinh trong việc bình ổn giá xăng dầu hiện nay ở việt nam_ bài hoàn chỉnh - Pdf 11

1 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải tăng cường các hoạt động nhằm phục
vụ cho nhu cầu của người dân, đồng thời phải cạnh tranh với nhau giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài. Việc bình ổn giá trong xu thế thị trường hiện nay là
một vấn đề rất quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế, kìm chế lạm phát
cao của nền kinh tế. Nhu cầu tiêu dùng cũng như sản xuất tiêu dùng ngày càng tăng,
nhiều ngành nghề phải chịu sự tác động của sự biến động giá cả. Mặt hàng xăng dầu là
một nhân tố mà mỗi quốc gia đều phải sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cũng như sản
xuất, nó cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế, đất nước muốn phát triển thì phải có nguồn
năng lượng. Hiện nay xăng dầu vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu. Giá cả của xăng dầu
trong thời gian qua tăng rất cao liên tục phá vở những kỷ lục về giá cả gây ảnh hưởng
không nhỏ đến nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.
Mặc dù, chính phủ đã có những kế hoạch dài hạn để tránh việc phụ thuộc quá
nhiều vào lượng nhập khẩu bằng biện pháp tự sản xuất các sản phẩm hóa dầu thay cho
việc hiện nay chỉ là sơ chế. Nhưng để thực hiện được điều này, lo rằng cần phải có một
khoảng thời gian khá dài, trong khi đó xăng dầu luôn là mặt hàng thiết yếu của nền kinh
tế. Việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của dân cư xuống dưới
mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản phẩm xăng dầu tăng lên tương
đối so với thu nhập. Do xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế
khác, nên giá đầu vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo
giá đầu ra sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến
sức mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát.
Một thị trường tài chính phái sinh còn ít được biết tới ở Việt Nam. Doanh nghiệp
dường như còn quá xa lạ với những công cụ để phòng tránh rủi ro cho hoạt động kinh
doanh trước những biến động của thị trường. Các ngân hàng thương mại về việc áp
dụng các công cụ phái sinh còn rất hạn chế, đặc biệt ở các ngân hàng thương mại quốc

Giới thiệu cho nhiều người hiểu biết về thị trường các công cụ phái sinh.
Giới thiệu cho các tổ chức cá nhân cũng như đơn vị có hướng nghiên cứu ứng
dụng công cụ phái sinh về vai trò của thị trường các công cụ phái sinh vào các mặt hàng
xăng dầu cũng như các sản phẩm khác giúp xác định được mục tiêu cũng như ổn định
thị trường.
Các hoạt động của thị trường các sản phẩm phái sinh đi vào nề nếp trở thành một
thói quen của các doanh nghiệp và cá nhân. Nâng cao vị thế của doanh nghiệp, cá nhân
trong nền kinh tế.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về thị trường sản phẩm phái sinh trên thế giới và tình hình phát triển
ở Việt Nam.
Tình hình biến động xăng dầu trên thế giới và ở Việt Nam trong thời gian qua.
4. Phương pháp nghiên cứu.
3  Nghiên cứu tại văn phòng:
Thông qua sách, báo chí, tài liệu, internet…
 Nghiên cứu thực tế:
Xem xét việc sử dụng các công cụ phái sinh tại các Ngân hàng.
Theo dõi những hoạt động kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam và chủ yếu là ở
Thành phố Hồ Chí Minh.
o Các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu:
Phương pháp duy vật biện chứng.
Phương pháp định tính.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp tổng hợp.
1.3 Những kinh nghiệm của thế giới và trong khu vực trong việc sử dụng các
công cụ phái sinh. .........................................................................................13
Chương 2: Thực trạng của tình hình xăng dầu trên thế giới và việc sử dụng
các công cụ phái sinh để bình ổn giá xăng dầu.
2.1 Nhận định chung về tình hình xăng dầu ở các nước xuất khẩu dầu lớn trên thế
giới. ................................................................................................. 15
2.2 Ảnh hưởng của tình hình xăng dầu trên thế giới đến Việt Nam. ............. 27
2.3 Tại sao giá xăng tăng đột biến trong những năm gần đây. ...................... 30
Chương 3: Ứng dụng các công cụ phái sinh trong các hoạt động xăng dầu
hiện nay:
3.1 Ứng dụng các công cụ phái sinh trong các hoạt động xăng dầu hiện nay trên
thế giới. ................................................................................................. 33
3.1.1 Thị trường phi tập trung................................................................. 34
3.1.1.1 Thị trường giao sau phi tập trung ............................................. 34
3.1.1.2 Thị trường quyền chọn phi tập trung. ....................................... 34
3.1.2 Thị trường tập trung. ..................................................................... 36
3.1.2.1 Thị trường giao sau tập trung. .................................................. 36
3.1.2.2 Thị trương quyền chọn tập trung: ............................................ 36
3.1.3 Cơ chế yết giá giao sau và quyền chọn. ......................................... 37
3.1.3.1 Hợp đồng giao sau. ....................................................................... 37
3.1.3.2 Hợp đồng quyền chọn. .................................................................. 39
5 3.2 Ứng dụng cho thị trường Việt Nam ........................................................ 42
3.2.1 Những bất cập trong việc ứng dụng các công cụ phái sinh ở thị trường
Việt Nam.......................................................................................... 42
3.2.2 Tại sao các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam cần phòng
ngừa rủi ro cho mặt hàng này là cần thiết?........................................ 46
3.3 Các giải pháp giảm ảnh hưởng biến động giá xăng dầu đến đời sống kinh tế

1.4 Thuật ngữ và khái niệm.
1.4.1 Phòng ngừa rủi ro bằng công cụ phái sinh.
Rủi ro (theo quan điểm hiện đại) là sự bất ổn về tỷ suất sinh lợi của một chứng khoán
hay một danh mục, hơn nữa rủi ro phản ánh một sự không chắc chắn trong tương lai.
Rủi ro (theo quan điểm truyền thống) là những kết quả nhận ít hơn mong đợi trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Một vấn đề nữa cần quan tâm nhất trong xu thế hiện nay đó là thế giới ngày càng trở
nên nhiều rủi ro hơn, những biến động không thể dự đoán trước của tỷ giá, lãi suất và giá cả
hàng hoá không những ảnh hưởng đến các khoản lợi nhuận, sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp cũng như nó ảnh hưởng đến khả năng phát triển của một quốc gia khi phải chịu tác
động của những biến động. Một doanh nghiệp hiện nay muốn phát triển không chỉ có công
nghệ sản xuất tiên tiến, nguồn cung cấp lao động rẻ hoặc phải có chiến lược tiếp thị tốt nhất,
những biến động giá đột ngột có thể đẩy một doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn, những
thay đổi trong tỷ giá có thể tạo ra nhiều đối thủ cạnh tranh mới, những biến động trong lãi suất
tạo ra áp lực làm tăng chi phí của doanh nghiệp và có thể dẫn tới tình trạng kiệt quệ tài chính.
Bất ổn của giá cả hàng hoá, giá cả trong thời gian qua chịu nhiều biến động của thị
trường, cụ thể bất ổn trong giá của loại dầu thô: Trước những năm 1973 không có một sự biến
động đáng kể nào trong giá dầu thế giới. Tính bất ổn của giá tăng trong giai đoạn giữa thập
niên 1980 chịu tác động của việc cấm vận dầu mỏ, bất ổn của chiến tranh Iran – Iraq và việc
bãi bỏ các quy định quản lý giá dầu ở Mỹ. Kể từ khi Mỹ phát động cuộc chiến tranh Iraq lần
thứ hai giá dầu thế giới đã liên tục phá vỡ các mức kỷ lục và đã vượt ngưỡng đến mức mà
không còn ai có thể tưởng tượng được, làm cho cả thế giới chịu biến động lớn như giá cả hàng
hóa tăng liên tục, lạm phát nhiều quốc gia tăng lên.
Thị trường các công cụ phái sinh là các thị trường dành cho các công cụ mang tính hợp
đồng mà thành quả của chúng được xác định trên một công cụ hoặc một tài sản khác. Các công
cụ phái sinh khác nhau bao gồm các hợp đồng quyền chọn, kỳ hạn, giao sau, quyền chọn,
quyền chọn trên hợp đồng giao sau, hoán đổi. Chúng ta sẽ đi sâu hơn vào phần hợp đồng kỳ
hạn, quyền chọn và giao sau cho sản phẩm là xăng dầu.
1.4.2 Vai trò của các công cụ tài chính phái sinh.
Thứ nhất, quản trị rủi ro: Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn

trình độ hiểu hiết và phát triển nhất định của bất kỳ nền kinh tế nào. Việt Nam đã gia nhập
WTO, hoà chung vào hơi thở chung của nền kinh tế toàn cầu, tuy nhiên, mức độ và điều kiện
áp dụng ở Việt Nam còn có những hạn chế nhất định. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần có một hệ
thống giải pháp tích cực để triển khai thành công kỹ thuật này trên thị trường tài chính.
1.4.3 Các khái niệm giao sau và quyền chọn.
1.4.3.1 Hợp đồng giao sau.
 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường giao sau:
Vào những năm 1840, Chicago nhanh chóng trở thành trung tâm phân phối và vận
chuyển của vùng Trung Tây nước Mỹ. Nông dân chở ngũ cốc từ các nông trại vành đai đến
Chicago để bán và sau đó phân phối về hướng Tây dọc theo đường ray và hồ lớn. Giá cả giảm
đáng kể vào thời kỳ thu hoạch khi cung tăng nhưng sau đó giá lại tăng đều đặn.
8 Vào năm 1848, một nhóm thương gia đã thực hiện bước đầu làm nhẹ bớt vấn đề này
bằng cách thành CBOT (hội đường thương mại Chicago), CBOT ban đầu được tổ chức vì mục
đích chuẩn hoá số lượng và chất lượng ngũ cốc. Một vài năm sau đó, hợp đồng kỳ hạn đầu tiên
được triển khai gọi là hợp đồng đến trước (to – arrive contract), cho phép công nhân có thể
đồng ý giao ngũ cốc vào một ngày trong tương lai với một giá xác định trước. Thoả thuận này
làm cho nông dân không phải chờ ngũ cốc đến Chicago vào thời kỳ thu hoạch nữa nhưng lại có
thể cố định được mức giá và ngày mà sau đó ngũ cốc sẽ được bán.
Vào năm 1874, Chicago Product Exchange được thành lập và sau đó trở thành Chicago
Butter and Egg Board. Vào năm 1898, tổ chức này được sắp xếp lại thành Sàn Giao Dịch Hàng
Hoá Chicago (Chicago Mercantile Exchange – CME). Hiện nay đây là sàn giao dịch hợp đồng
giao sau lớn thứ hai thế giới. Nhiều năm trôi qua, nhiều sàn giao dịch đã được thành lập bao
gồm sàn giao dịch giao sau New York (1979).
Vào năm 1976, thị trường tiền tệ quốc tế đã giới thiệu hợp đồng giao sau đầu tiên trên
trái phiếu chính phủ và các công cụ tài chính ngắn hạn là trái phiếu kho bạc T-Bill Mỹ loại 90
ngày. Hợp đồng này đã được giao dịch rất năng động trong nhiều năm liền nhưng sau đó đã
giảm dần do những thành công mang lại từ các hợp đồng giao sau Eurodollar, đây là dạng giao

động liên tục, nhộn nhịp và hiệu quả được. Sở dĩ người đầu cơ mạo hiểm chấp nhận rủi ro để
tham gia thị trường giao sau là vì công cụ đòn bẩy tài chính của thị trường giao sau. Khi người
đầu cơ tham gia vào thị trường giao sau, họ không phải bỏ ra đầy đủ số tiền như mình đã ký kết
trong hợp đồng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ của mình, thay vào đó là đóng tiền bảo
chứng cho mỗi lần giao dịch. Các sở giao dịch trên thế giới đều buộc những người tham gia
đóng tiền bảo chứng (margin) và quy định cụ thể mức duy trì tài khoản bảo chứng (maintenant
margin) là mức tiền bảo chứng thấp nhất cho phép. Thông thường, mức tiền bảo chứng chỉ
nằm trong khoảng từ 2% đến 20% giá trị hợp đồng giao sau tuỳ thuộc vào loại hàng hoá. Mức
tiền bảo chứng càng thấp thì khả năng đòn bẩy tài chính càng cao. Tiền bảo chứng chỉ là một
tài khoản cam kết thi hành hợp đồng ở một mức giá cụ thể (không phải là chi phí cho việc lập
hợp đồng giao sau) do đó sự thay đổi giá cả trên thị trường giao sau so với mức giá mà người
đó đã thiết lập có thể ảnh hưởng đến tài khoản bảo chứng.
Như vậy, đòn bẩy tài chính như là con dao hai lưỡi. Nó mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà
đầu tư, giúp cho mọi người có thể kiếm lời từ sự thay đổi giá cả của các loại hàng hoá. Ngược
lại, nó cũng là nơi dành cho những người đầu cơ dám chấp nhận rủi ro và là công cụ nguy hiểm
cho các loại tội phạm tài chính. Trường hợp của quỹ Quantum dùng đòn bẩy hợp đồng giao sau
để kinh doanh đã làm khủng hoảng nền kinh tế Thái Lan, các nước khu vực Đông Nam Á vào
năm 1997 là một ví dụ tiêu biểu cho sự thống nhất biện chứng giữa rủi ro và lợi ích của hợp
đồng giao sau.
 Bên cạnh đó, hợp đồng giao sau còn có vai trò là một công cụ bảo hộ:
Nhóm người bảo hộ là tất cả những người sử dụng hợp đồng giao sau để bảo hộ cho hoạt
động kinh doanh của mình, bao gồm: người sản xuất, người sở hữu hàng hoá, người xuất khẩu,
người nhập khẩu, các công ty, các công ty quản lý quỹ, các ngân hàng, các công ty đa quốc gia
và kể cả chính phủ. Họ bảo hộ những rủi ro sau:
Đối với sự biến đổi về giá cả hàng hoá đối với các nguyên vật liệu thô (về năng lượng,
kim loại, nông sản…). Người mua không muốn giá quá cao nên đã mua trước bằng hợp đồng
giao sau ở một giá định trước, còn người bán thì không muốn giá cả rớt quá thấp nên đã bán
trước bằng hợp đồng giao sau.
10


 Đối với vai trò quản lý Nhà nước:
Đối với các loại hàng hoá thông thường, sự xuất hiện thị trường giao sau sẽ giúp cho các
thành phần tham gia thị trường cũng như Nhà nước nắm được quan hệ cung cầu và giá cả. Sự
giao dịch tập trung giúp cho diễn tiến giá trên thị trường phản ánh được quan hệ cung cầu, đặc
biệt hơn ở chỗ là giá cả đó lại là giá cả dự kiến trong tương lai gần. Những người bảo vệ sẽ
không lo bị ép giá và tự động điều tiết việc sản xuất của mình dựa trên quan hệ cung cầu trên
thị trường. Còn Nhà nước thì biết được quan hệ cung cầu và giá cả để định hướng sản xuất,
thực hiện việc quản lý kinh tế vĩ mô.
11  Từ những lợi ích thiết thực trên, các nước khác trên thế giới đều đang nỗ lực xây
dựng và phát triển thị trường giao sau. Và để cho thị trường giao sau được hoạt động và phát
triển trong sự quản lý và theo định hướng của Nhà nước, các nước có thị trường giao sau đều
có luật qui định tổ chức và hoạt động của thị trường phái sinh và các văn bản luật cụ thể cho
một số loại hợp đồng giao sau cụ thể.
1.4.3.2 Hợp đồng quyền chọn (Option).
 Quá trình hình thành và phát triển của thị trường quyền chọn:
Ttrong những năm đầu của thập nhiên 1900, một nhóm các công ty gọi là Hiệp hội các
Nhà môi giới và Kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán đã thành lập thị trường các
quyền chọn. Nếu một người nào đó muốn mua quyền chọn, một thành viên của hiệp hội này sẽ
tìm một người bán sẵn sàng muốn ký hợp đồng bán quyền chọn. Nếu công ty thành viên không
thể tìm được người bán, tự công ty sẽ bán quyền chọn. Mặc dù thị trường quyền chọn phi tập
trung (OTC) này có thể tồn tại, nó có rất nhiều khiếm khuyết. Thứ nhất, thị trường này không
cung cấp cho người nắm giữ quyền chọn có cơ hội bán quyền chọn cho một người khác trước
khi quyền chọn đáo hạn. Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng của người bán chỉ được đảm bảo bới
các công ty môi giới kiêm kinh doanh. Nếu người bán hoặc công ty thành viên của Hiệp hội
các Nhà môi giới và Kinh doanh quyền chọn mua và quyền chọn bán bị phá sản, người nắm
giữ quyền chọn tuyệt đối không may mắn. Thứ ba, chi phí giao dịch tương đối cao, một phần là
do hai vấn đề trên.

trước trong hợp đồng. Hay có thể hiểu người sở hữu một quyền chọn bán có quyền bán một tài
sản, tại một mức giá nhất định, vào một thời điểm nhất định.
Quyền chọn mua (call option) là một quyền chọn để mua tài sản, cho phép người mua
Option có quyền quyết định thực hiện mua tài sản hay không mua tài sản theo giá đã ấn định
trước trong hợp đồng. Hay có thể hiểu người sở hữu một quyền chọn mua có quyền mua một
tài sản, tại một mức giá nhất định, vào một thời điểm nhất định.
Giá thực hiện còn được gọi là giá điểm là mức giá tại đó tài sản trong một quyền chọn
có thể được mua hoặc bán.
Tài sản cơ sở là loại tài sản sẽ được giao trên cơ sở mua hoặc bán khi quyền chọn được
thực hiện.
Giá trị nội tại (intrinsic value) là giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được
bằng cách thực hiện quyền. Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại bằng 0. Giá thị
trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá bán quyền được gọi là phần
phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị nội tại (trong trường hợp quyền đang được
tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị theo thời gian.
Nói cách khác, khi đó:
Giá trị theo thời gian của quyền chọn mua = Giá quyền - (giá thị trường - giá thực
hiện).
1.5 Đặc điểm.
1.5.1 Đặc điểm của hợp đồng giao sau.
Hợp đồng giao sau có nhiều đặc điểm riêng biệt, không có ở các hợp đồng khác. Dựa
vào định nghĩa và thực tiễn, hợp đồng giao sau có thể được chia thành các đặc điểm chính sau:
Các điều khoản trong hợp đồng giao sau được tiêu chuẩn hoá.
13 Hợp đồng giao sau là một hợp đồng song vụ, cam kết thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
trong tương lai.
Hợp đồng giao sau được lập tại Sở giao dịch qua các cơ quan trung gian.
Hợp đồng giao sau phải có tiền bảo chứng và đa số các hợp đồng giao sau đều được


14 1.5.2 Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng quyền chọn mang những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hoá:
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là
thương nhân.
Hình thức có thể được thiết lập theo cách thức mà hai bên thể hiện được sự thoả thuận
mua bán hàng hoá giữa các bên (có thể: bằng lời nói, văn bản, hoặc hành vi của các bên giao
kết) (điều 24 LTM2005).
Đối tượng của hợp đồng là hàng hoá.
Nội dung, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán, theo đó bên
bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận tiền; còn
bên mua có nghĩa vụ nhận hàng hoá và trả tiền cho bên bán.
Ngoài ra hợp đồng quyền chọn mang những đặc điểm:
Hợp đồng này là hợp đồng song vụ, theo đó các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trong
tương lai.
Đối tượng là những hàng hoá chưa hiện hữu tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng
mua bán.
Được giao kết và thực hiện qua sở giao dịch hàng hoá.
Không bắt buộc các bên phải giao sản phẩm.
Chỉ quy định quyền giao hay nhận, mà không bắt thuộc thực hiện nghĩa vụ của mình.
Người mua có thể thực hiện quyền hoặc bán quyền cho người khác hay không thực
hiện quyền. Để thực hiện quyền này, khi ký kết hợp đồng người mua phải trả quyền phí, giá
trong hợp đồng gọi là giá thực hiện và ngày định trong hợp đồng là ngày đáo hạn. Tương tự
như vậy đối với người bán trong hợp đồng quyền chọn bán.
Tuỳ theo từng loại mà hợp đồng quyền chọn có thể thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào
trước ngày đáo hạn hoặc đến ngày đáo hạn.
Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn

Bằng chứng về những thoả thuận cho vay đã xuất hiện ở nhiều nền văn minh cổ đại,
đặc biệt những nhà nghiên cứu đã ghi nhận về sự tồn tại của ít nhất là hai tổ chức hoạt động
theo hình thức ngân hàng ở Babylonia và Assyria khoảng vài ngàn năm trước Công Nguyên.
Những công cụ vốn và trái phiếu bắt đầu được phát triển vào những thế kỷ 16. Những chứng
khoán chuyển đổi cũng có lịch sử phát triển từ khá lâu. Ở Châu Âu lục địa, vào thế kỷ 16 đã có
những loại cổ phần được phát hành kèm với điều khoản chuyển đổi thành các khoản nợ trong
trường hợp một số điều khoản đi kèm bị phá vỡ. Tương tự, các dạng cổ phiếu ưu đãi cũng đã
được phát triển từ giai đoạn này. Hoạt động giao dịch chứng khoán, xét trên góc độ tài chính,
có một lịch sử rất dài. Các dạng cổ phần đã bắt đầu được giao dịch ở Antwerp và Amsterdam
từ đầu những năm 1600. Hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn bắt đầu được giao dịch
khi sàn Amsterdam ra đời vào năm 1611.
Thế kỷ 18 chứng kiến nhiều sàn giao dịch ở Châu Âu trải qua những giai đoạn "bong
bóng thị trường" (stock market bubble). "Bong bóng South Sea" (1720) là một ví dụ điển hình.
Sự kiện bong bóng thị trường này là nguyên nhân trực tiếp hình thành bộ luật Bubble Act (tạm
dịch là "luật về giá bong bóng"). Đạo luật này bắt buộc mỗi công ty khi đăng ký thành lập phải
16 có điều lệ và cũng nghiêm cấm công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh không mô tả trong
điều lệ.
Những năm 1960 chứng kiến nhiều đổi bước tiến trong lĩnh vực tài chính bắt nguồn từ
những hạn chế trong các quy định quản lý. Thị trường Eurobond hình thành tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp không thuộc Mỹ có thể thực hiện các khoản vay bằng đồng USD. Điều này
rất có ý nghĩa bởi ở giai đoạn đó người nước ngoài không được phép vay vốn ở thị trường Mỹ.
Tương tự như vậy, hợp đồng hoán đổi tiền tệ cũng được hình thành và phát triển trong giai
đoạn này để tránh những quy định ràng buộc về hoạt động giao dịch tiền tệ ở Anh. Những năm
1970 chứng kiến sự hình thành của những công cụ tài chính có lãi suất biến đổi (floating-
interest instruments - loại trái phiếu có lãi coupon gắn với một loại lãi suất biến đổi, chẳng hạn
như lãi suất LIBOR) và việc bắt đầu giao dịch những hợp đồng tương lai tài chính chẳng hạn
như hợp đồng tương lai với tiền tệ, lãi suất và với chỉ số thị trường chứng khoán.
Chương 2: Thực trạng của tình hình xăng dầu trên thế giới và việc
sử dụng các công cụ phái sinh để bình ổn giá xăng dầu.
2.1 Nhận định chung về tình hình xăng dầu trên thế giới.
Hiện nay, ngành công nghiệp năng lượng đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển của các nền kinh tế thế giới. Nhằm đảm bảo an toàn, bình ổn thị trường và đáp
ứng nhu cầu năng lượng đang gia tăng cho mỗi quốc gia, các nước xuất khẩu dầu lớn trên thế
giới (Nga, Iran, Quatar, Venezeuela, Arập Xêut,..) đang cố nỗ lực phát triển, đầu tư, mở rộng
quan hệ hợp tác với các nước khác để tăng sản lượng khai thác, chế xuất dầu và khí gas tại các
mỏ dầu khí tiềm năng xa bờ cũng như tăng hiệu suất lọc dầu ở các mỏ dầu có trữ lượng lớn.
Hiện nay, trước tình hình biến động rất lớn về giá dầu và sự thiếu hụt năng lượng ở các
nền kinh tế lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đức, Pháp…, Nga đang nổi lên với
cương vị là một nhà sản xuất năng lượng siêu cường. Chính phủ nước này đang tập trung đầu
tư mạnh vào ngành năng lượng, khai thác triệt để các mỏ dầu tiềm năng, trữ lượng lớn. Phía
EU đang hối thúc Nga ký kết nhiều hợp đồng năng lượng dài hạn nhằm đảm bảo nhu cầu năng
lượng đang gia tăng trong khối. Hiện nay, EU nhập khẩu khoảng 82% lượng dầu và 57% lượng
khí gas từ các nước khác (trong đó Nga xuất khẩu khoảng 50% lượng dầu và khí gas sang EU
và con số này có thể tăng lên 70% trong thập niên tới.
Nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu năng lượng trên toàn cầu, quốc gia sản xuất dầu lớn
nhất thế giới- Arập Xêut có kế hoạch sẽ tăng sản lượng dầu thô lên tới 40% (khoảng 12,5 triệu
thùng dầu thô/ngày) vào năm 2009 và tăng năng suất lọc dầu lên gấp đôi (khoảng 6 triệu
thùng/ngày, trong vòng 5 năm tới. Qatar, một trong những quốc gia có trữ lượng khí gas tự
nhiên hoá lỏng (LNG) lớn nhất thế giới cũng có kế hoạch sẽ tăng xuất khẩu LNG ra thị trường
quốc tế. Ông Al Attiyal- Bộ Trưởng Công Nghiệp và Năng Lượng Qatar cho biết, lượng LNG
xuất khẩu của Qatar ra nước ngoài sẽ tăng lên khoảng 35 triệu tấn/năm trong năm nay và tăng
đến mức ổn định nhất khoảng 77 triệu tấn/năm vào năm 2010. Đặc biệt, các quốc gia châu Á
như : Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ... là những thị trường quan trọng nhất của Qatar. Qatar sẽ
tăng xuất khẩu LNG sang Nhật Bản từ 6 triệu tấn/năm hiện nay lên 11 triệu tấn/năm vào năm
2010. Trong năm nay, xuất khẩu LNG sang Hàn Quốc tăng từ 2 triệu tấn/năm lên 7 triệu

trong năm 2008, tăng khoảng 100.000 thùng/ngày so với con số được đưa ra trước đó. IEA
thừa nhận có sự thay đổi lớn trong những dự báo của cơ quan này về giá dầu, bởi lẽ những gián
đoạn về nguồn cung không lường hết được (do xung đột tại các nước sản xuất dầu mỏ), điều
kiện thời thiết bất thường hay một số cơ sở lọc dầu ngừng hoạt động, tất cả những nhân tố này
đều có thể khiến dầu tăng giá mạnh. Giá dầu tăng dự kiến sẽ đánh mạnh vào người tiêu dùng
Mỹ và làm giảm nhu cầu tiêu thụ xăng của nước này trong những tháng hè - mùa du lịch cao
điểm tại đây. EIA dự kiến giá xăng bán lẻ sẽ tăng lên gần 3,6 $/gallon trong tháng 6/08. Giá
20 xăng cao và kinh tế yếu kém sẽ khiến nhu cầu của Mỹ đối với nhiên liệu này giảm khoảng
0,4%. Nhiều chuyên gia phân tích dự báo giá xăng có thể tăng cao hơn và chạm ngưỡng
4$/gallon. Đặc biệt, mức tiêu thụ các chế phẩm dầu mỏ tại Mỹ dự kiến sẽ giảm 90.000
thùng/ngày trong năm nay. Trong khi trước đó, EIA dự báo sức tiêu thụ các sản phẩm này tăng
40.000 thùng/ngày.
 Lịch sử giá xăng dầu trong giai đoạn 2005 đến đấu năm 2008:
 Sự gia tăng trong năm 2005:
Giá dầu thô đã tăng lên một ngưỡng mới vào tháng 3/2005. Giá chốt ở sàn NYMEX
trên mức $50/thùng từ ngày 5/03/2005. Vào ngày 16/03/2005, giá đã vượt qua ngưỡng cao nhất
là $55.17 của tháng 10/2004 và đóng ở mức $56.46. Vào tháng 4/2005 giá bắt đầu giảm, ở mức
$53.32 vào ngày 9/4. Sau đó tiếp tục tăng ở mức giá $58.28 trong suốt 1 khoảng thời gian,
nguyên nhân là do ảnh hưởng kéo dài của việc đồng dollar mất giá. Vào tháng 06/2005 giá dầu
thô đã phá vỡ kỷ lục ngưỡng tâm lý ở mức $60/thùng.
Vào ngày 17/01/2006 dầu thô giao ngay tháng 2 tăng lên mức từ $2.38(3.7%) đến
$33.30 một thùng. Đây là mức tăng cao nhất từ tháng 10/2005. Nhiều chuyên gia cho rằng bạo
lực ở Nigeria, và xung đột ở miền Tây Iran là nguyên nhân chủ yếu của dự gia tăng này. Tiếp
tục liên quan đến sự gia tăng xung đột ở Iran, giá tăng đến $68.38 vào ngày 31/01. Tuy nhiên,
tuỳ vào lượng dầu thô dự trữ và sự khác thường của thời tiết vào mùa đông, vì thế ngày 14/12,
giá dầu thô ở mức thấp nhất là $59.60.
 Sự gia tăng trong năm 2006:

chính trị Iran dễ chịu hơn, nguồn cung dư thừa và thiên tai giảm nhiều ở khu vực sản xuất dầu
của Vịnh Mexico.
Sau khi có tin Bắc Triều Tiên thử thành công tên lửa vào ngày 09/10/2006, giá dầu đã
tăng qua mức $60/ thùng, nhưng đã giảm xuống ngay ngay hôm sau. Cũng như thế, trong vài
ngày đầu tháng 10, giá dầu nhảy lên quanh mốc $60 điểm khi có tin cho rằng các nước thuộc
khối OPEC sẽ cắt giảm sản lượng sản xuất dầu thô 1,000,000 thùng/ ngày. OPEC đã không cắt
giảm sản lượng từ tháng 12/2004. Tuy nhiên, thị trường dường như đã xoá bỏ tin này, đặc biệt
khi có tin Saudi Arabia đã nói rằng không có thoả thuận cắt giảm ở đây.
Vào ngày 11 tháng10, giá dầu lần đầu tiên đã giảm xuống dưới $58 từ tháng 2. Những
ngày sau đó, vào ngày 20 tháng 10, giá đóng cửa một thùng dầu thô là $56.82. Cùng ngày này,
OPEC đã công bố rằng họ sẽ cắt giảm sản lượng từ 1.2 tỷ thùng mỗi ngày để ngăn chặn sự
trượt giá.
 Sự tăng giá giữa năm 2007:
Mức trung bình ở Mỹ là $3.09, và một vài phần của bờ biển phía Tây đã bán với giá
không dưới $3.33/gallon. Ở NYMEX do tình trạng bất ổn ở Nigeria, một thùng dầu được giao
dịch ở mức $73.93. Sự ngưng trệ của một đường ống dẫn dầu ở bờ biển Bắc cũng là nguyên
nhân làm cho giá dầu thô Brent lên tới $79.64. Dự luật từ Đảng Dân Chủ-được ban hành bởi
Quốc Hội Mỹ, chấp hành dự luật không sản xuất và xuất khẩu dầu của năm 2007 từ Uỷ ban
Năng lượng và Thương Mại. Đại diện Nhà Trắng đã thông qua đạo luật “NOPEC” vào ngày 22
tháng 5/2007. Vào ngày 12 tháng 9/2007 giá dầu tăng lên mức kỷ lục là $80 mỗi thùng, vượt
qua mức giá cao nhất của thập kỷ 80. Giá dầu cao và nguồn cung hạn chế làm gia tăng mối
quan tâm của những người tin rằng giá dầu trong tương lai không xa sẽ đạt đỉnh, hoặc mới vừa
22 trôi qua, bởi người ta cho rằng nguồn cung sẽ không gia tăng một cách đáng kể, và trong một
khoảng dài hạn hơn nguồn cung giảm xuống là một điều dễ xảy ra. Một điều nên nhớ rằng xu
hướng giá này tuỳ thuộc vào sự trượt giá của đồng dollar so với những đồng tiền khác. So sánh
so với đồng Euro là một ví dụ, vì đồng dollar giảm từ từ, giá dầu dường như ít thay đổi hơn.
Kết quả của mức giá này đem lại một mối quan hệ tương đối, nhưng vì đồng dollar mất giá trị

23 thời từ chối dứt khoát việc tăng sản lượng và đổ trách nhiệm cho sự yếu kém của chính quyền
Bush. Giá dầu đẩy lên trên mức $110/thùng khi có dự kiến về mức lạm phát vào ngày 12 tháng
3/2008 trước khi chốt ở mức giá $109.92 khi mức sản xuất toàn cầu giảm xuống một mức mới.
Hàng loạt những sự kiện liên quan đã đẩy giá dầu tăng tột đỉnh. Giá dầu tiếp tục với những
cuộc mốc kỷ lục mới khi tăng $111/thùng vào 13/3/2008 trước khi trượt xuống dưới giá $110
do mối lo ngại nền kinh tế Mỹ suy thoái.
Tóm lược và phân tích tình hình dầu thô và khí Gas tự nhiên trong hiện tại.
+ Thị trường dầu tiếp tục diễn biến phức tạp bởi những đặc tính vốn có của nó, những
vướng mắc trong việc phân vùng địa lý, và sự thích nghi chậm chạp với những biến động để có
thể mang lại một mức giá thấp hơn.
+ Chi phí thăm dò và khai thác có thể tăng lên một cách nhanh chóng hơn chúng ta
mong đợi khi ta chứng kiến sự thay đổi trong giá năng lượng dài hạn vào năm 2007.
+ Hơn nữa, nguồn tài nguyên quốc gia, những thay đổi trong kỳ tài khoá, và khó khăn
trong vùng địa lý tới nguồn cung dầu cũng ảnh hưởng đến giá dầu.
+ Mối quan hệ giữa nhu cầu dẫn đến giá năng lượng tăng tuỳ thuộc vào mức độ thu
nhập thực tế. Giá có thể bị ảnh hưởng bởi sự sụt giảm của GDP toàn cầu, nhưng sự suy thoái
mang tính toàn cầu dường như không như vậy.
+ Chúng tôi mong đợi giá dầu của WTI, và Brent trong bảng danh sách trên sẽ có mức
trung bình ở mức $75/bbl năm 2010 và $80/bbl trong năm 2012-2013. So sánh này với giai
đoạn giữa chu kỳ ước tính trên $65/bbl.
+ Giá gas dự đoán ở Mỹ dự đoán trung bình ở mức $8.75/mmBtu trong năm 2010, tăng
lên $8/mmBtu so với trước đó.
Vào trung tuần tháng 11, dự đoán giá dầu trong ngắn hạn phản ánh đúng thực tế khi giá
dầu ở mức khá cao và tiếp tục chính sách siết chặt của các nước cung cấp dầu mỏ và sự gia
tăng trong nhu cầu. Nhưng chúng tôi cũng không ngạc nhiên khi có sự thay đổi từ việc dự đoán
giá trên $60s cho dài hạn hay giữa chu kỳ trong khung thời gian 2012-2013 mà chúng tôi đã
chốt giá vào tháng 7/2007. Chúng tôi tin rằng đây chính là giá dầu đòi hỏi sẽ bao gồm thay đổi

vẫn đang phát triển nhưng nó không đủ sức để tạo ra một bước đột phá như cách đây hai thập
kỷ. Việc phát hiện những khu vực có trữ lượng dầu mỏ tiềm năng cao ngày càng giảm xuống vì
“nguồn lực quốc gia” đã dần chuyển sang vấn đề chính trị hơn là việc khai thác.
25
Giá trị lịch sử trong Hình 2 dựa trên số liệu chi tiết chi phí hoạt động và quản lý và
thông tin được cung cấp mỗi năm bởi các công ty sản xuất năng lượng lớn ở Mỹ cho US
DOE/EIA (uỷ ban năng lượng Mỹ) thông qua “Financial Reporting System” (FRS),

Chi phí cho mỗi thùng dầu là sự kết hợp tuyệt đối giữa chi phí và việc thay đổi nguồn
dự trữ. Mức độ giảm dần trong nguồn dự trữ trong một vài năm gần đây đã là một phần quan
trọng trong việc gia tăng chi phí thăm dò. Trong năm 2006, nguồn dự trữ trong các bảng báo
cáo tài chính của các công ty (bao gồm doanh số mua và bán nguồn dự trữ) đã giảm xuống
27% so với năm 2005 tương đương với 4 tỷ thùng dầu, dẫn đến việc giảm đi lượng lớn khí gas
tự nhiên dự trữ.
Theo DOE/EIA, tỷ lệ thay thế cho khí gas tự nhiên trong các bảng báo cáo tài chính
nguồn dự trữ của các công ty là 88% trong năm 2006.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status