Nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến sản xuất tôm sú giống sạch bệnh - Pdf 13

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
CHƯƠNG TRÌNH KHCN CẤP NHÀ NƯỚC KC 06/06-10
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI
“NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ TIÊN TIẾN SẢN XUẤT
TÔM SÚ GIỐNG SẠCH BỆNH”
Mã số KC.06.06/06-10
Cơ quan chủ trì : Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thuỷ sản 1
Chủ nhiệm đề tài: TS. Lê Thanh Lựu

Bắc Ninh, tháng 12 năm 2010

i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iii

3.2.1. Quy cỡ tôm bố mẹ 66
3.2.2. Các chỉ tiêu thời gian liên quan tới các thời điểm đẻ trứng 69
3.2.3. Các chỉ tiêu sinh học 81

ii
3.2.4. Các chỉ tiêu môi trường của bể nuôi vỗ và hiện trạng bệnh của tôm bố mẹ
94

3.3. Chất lượng ấu trùng tôm được sản xuất theo hai phương thức truyền
thống và án toàn sinh học 97

3.3.1. Các chỉ số sinh học của giai đoạn ương thí nghiệm từ ấu trùng thành hậu
ấu trùng PL12 99

3.3.2 Ương ấu trùng qui mô vừa 109
3.3.3. Các chỉ tiêu môi trường của bể ương và hiện trạng bệnh của ấu trùng và
hậu ấu trùng 120

3.4. Kết quả nuôi thương phẩm từ tôm giống thu bằng hai phương thức sản
xuất 135

3.4.1. Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường 136
3.4.2. Kết quả đánh giá các chỉ tiêu sinh học 143
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 155
TÀI LIỆU THAM KHẢO 159 iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


SMP-DNA
Slow Migrating Peak - DNA
SMP-RNA
Slow Migrating Peak - RNA
TSV
Taura Syndrome Virus (Virus gây bệnh như triệu chứng
Taura)
WSSV
White Spot Syndrome Virus (Virus gây bệnh đốm trắng)
YHV/GAV
Yellow Head Virus / Gill Associated Virus (Virus gây bệnh
đầu vàng) iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Chiều dài và trọng lượng tôm mẹ trong thí nghiệm nuôi vỗ 67
Bảng 3.2. Chiều dài và trọng lượng của tôm mẹ nuôi vỗ xếp theo các nghiệm thức
nuôi vỗ tôm mẹ 68

Bảng 3.3. Sơ đồ tóm tắt các kiểu quá trình kích thích tôm mẹ sinh sản trong trại sản
xuất giống 70

Bảng 3.4. Thời gian từ lúc nhập trại đến lần sinh sản lần cuối xếp theo nghiệm thức
nuôi vỗ 71

Bảng 3.5. Thời gian từ lúc nhập trại đến lần sinh sản lần cuối 72
xếp theo 3 yếu tố trong bố trí thí nghiệm nuôi vỗ 72
Bảng 3.6. Thời gian từ lúc nhập trại đến lần lột xác đầu tiên
xếp theo nghiệm thức nuôi vỗ 74

Bảng 3.19. Số lần sinh sản của tôm mẹ xếp theo kiểu kích thích sinh sản 83
Bảng 3.20. Sức sinh sản tương đối tối đa của một lần đẻ trứng 85
(trứng g
-1
) xếp theo nghiệm thức nuôi vỗ tôm mẹ 85
Bảng 3.21. Sức sinh sản tương đối tối đa của một lần đẻ trứng 85
(trứng g
-1
) xếp theo 3 yếu tố trong bố trí thí nghiệm nuôi vỗ 85
Bảng 3.22. Tỉ lệ thụ tinh (%) xếp theo các nghiệm thức nuôi vỗ tôm mẹ 87
Bảng 3.23. Tỉ lệ thụ tinh (%) xếp theo 3 yếu tố trong thí nghiệm nuôi vỗ 88
Bảng 3.24. Tỉ lệ nở của trứng (%) xếp theo các nghiệm thức nuôi vỗ tôm mẹ 89
Bảng 3.25. Tỉ lệ nở của trứng (%) xếp theo 3 89
yếu tố bố trí thí nghiệm nuôi vỗ 89
Bảng 3.26. Thời gian (phút) sống của ấu trùng trong dung dịch
formalin 150 mL m
-3
xếp theo các nghiệm thức nuôi vỗ tôm mẹ 91
Bảng 3.27. Thời gian (phút) sống của ấu trùng trong dung dịch formalin 150 mL m
-3

xếp theo 3 yếu tố bố trí thí nghiệm nuôi vỗ 92

Bảng 3.28. Thời gian (phút) sống của ấu trùng trong nước biển 93
pha loãng 10 g L
-1
xếp theo các nghiệm thức nuôi vỗ tôm mẹ 93
Bảng 3.29. Thời gian (phút) sống trung bình của ấu trùng trong nước biển 93
pha loãng 10 g L
-1


Bảng 3.48. Các chỉ tiêu kinh tế của hai nhóm ao nuôi thí nghiệm và đối chứng 153
vii
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1. Sơ đồ hệ tuần hoàn do nhóm tác giả đề xuất 56
Hình 3.2. Biểu đồ phân bố chiều dài tôm mẹ trong thí nghiệm nuôi vỗ 67
Hình 3.3. Biểu đồ phân bố trọng lượng tôm mẹ trong thí nghiệm nuôi vỗ 68
Hình 3.4. Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng của tôm mẹ nuôi vỗ 68
Hình 3.5. Chiều dài và trọng lượng của tôm mẹ nuôi vỗ xếp theo các nghiệm thức
nuôi vỗ tôm mẹ 69

Hình 3.6. Tương quan giữa thời gian Nhập trại – Đẻ cuối và số lần đẻ. 73

của PL12 trong thí nghiệm ương ấu trùng. 109
Hình 3.27. Tỉ lệ sống của PL12 theo 4 nhóm mật độ thả ban đầu 112
Hình 3.28. Tương quan giữa mật độ ấu trùng thả ban đầu (con L
-1
) và tỉ
lệ sống (%) của PL12 trong thử nghiệm ương ấu trùng qui mô vừa 113

Hình 3.29. Tương quan giữa chiều dài (mm) và trọng lượng của PL12
trong thử nghiệm ương ấu trùng qui mô vừa 114

Hình 3.30. Tương quan giữa tỉ lệ cơ ruột với chiều dài (mm) và trọng lượng của
PL12 trong thử nghiệm ương ấu trùng qui mô vừa 115

Hình 3.31. Biến động hàm lượng TAN qua các ngày trong thí nghiệm ương ấu trùng121
Hình 3.32. Biến động hàm lượng nitrit qua các ngày trong thí nghiệm ương ấu trùng122
Hình 3.33. Biến động hàm lượng nitrat qua các ngày trong thí nghiệm ương ấu
trùng 122

Hình 3.34. Biến động hàm lượng TAN qua các ngày trong thử nghiệm ương ấu
trùng 125

Hình 3.35. Biến động hàm lượng nitrit qua các ngày trong thử nghiệm ương ấu
trùng. 125

Hình 3.36. Biến động hàm lượng nitrat qua các ngày trong thử nghiệm ương ấu
trùng. 126

Hình 3.37. Kết quả đo nhiệt độ của mô hình nuôi thí nghiệm 137
Hình 3.38. Kết quả quản lý Oxy hòa tan của mô hình nuôi thí nghiệm 138
Hình 3.39. Kết quả quản lý độ trong của mô hình nuôi thí nghiệm 139

nhiều thành công đáng kể, giá cả luôn cao hơn và được nhiều thị trường yêu
chuộng hơn . S
ự giảm sút sản lượng cũng như việc các nước châu Á từ bỏ đối
tượng bản địa quan trọng này, theo các chuyên gia, là do chưa gia hoá và
kiểm soát được dịch bệnh, nên không đảm bảo chất lượng tốt của con giống
và đạt mức độ an toàn cao cho người nuôi trồng. Trong lịch sử phát triển tôm
sú, có ba quốc gia và vùng lãnh thổ như Đài loan, Trung Quốc, Thái Lan đã
từng đạt đỉnh cao của công nghệ nuôi tôm sú, sản lượ
ng cao nhất nhưng cuối
cùng cũng bị đổ vỡ và chuyển sang nuôi tôm chân trắng.
Ở Việt Nam trong những năm đầu của thập niên trước (khoảng 1991-
1993) dịch bệnh cũng đã bùng phát và gây những mất mát nghiêm trọng cho
ngành nuôi tôm. Kết quả là những vùng nuôi ở đồng bằng sông Mê Kông đã
2

bị tổn hại, mất mát đáng kể. Từ đó tới nay, tuy chưa có dịch bệnh nào mang
tính rộng khắp, sức tàn phá của chúng chưa đến mức làm đổ vỡ cả ngành
công nghiệp nuôi tôm, nhưng hàng năm khoảng 15-25% diện tích nuôi thả
trong phạm vi cả nước thường bị lây nhiễm dịch bệnh và bị tổn thất. Khá
nghiêm trọng là tình hình nuôi ở các tỉnh miền Trung, trong 4-5 năm trở lại
đây, khoảng trên 50% di
ện tích ao đầm đã bị bỏ hoang hoá vì tình trạng dịch
bệnh tràn lan. Nghề nuôi tôm ở Việt Nam tới nay vẫn tồn tại vì phần lớn diện
tích nuôi tôm của Việt Nam vẫn đang ở dạng quảng canh, quảng canh cải tiến
cho nên sự mất mát rủi ro đâu đó có thể xẩy ra, nhưng chưa gây thành đại
dịch. Tuy nhiên, xu thế thâm canh, vẫn đang là một xu thế không thể cản nổi.
Đồng hành vớ
i xu thế này là những rủi ro có thể xảy ra chủ yếu là vì dịch
bệnh, chất lượng tôm giống kém, môi trường bị ô nhiễm. Trong trường hợp
như vậy lịch sử ngành nuôi tôm sú của Việt Nam sẽ lặp lại giống như ba

Dự án chắc chắn sẽ mang lại lợi ích lớn cho sản xuất trong đó có lợi ích kinh
tế xã hội cho cộ
ng đồng những người nuôi tôm thương phẩm bởi các bằng
chứng và các chỉ số sau:
• Hàng năm khoảng 15-25% diện tích nuôi tôm thương phẩm bị thiệt hại
hoàn toàn do tôm bị bệnh, mà nguyên nhân chủ yếu là tôm sú giống chất
lượng kém, bị nhiễm bệnh ngay từ đầu. Thiệt hại kinh tế của người nuôi
thương phẩm là các chi phí cho cải tạo ao, cho mua giống, cho thức ăn
trong vòng 30-60 ngày. Nếu tính giá thành sản xuất 1 kg tôm sú thịt giao
động khoảng 60.000-75.000 đ/kg, năng suất trung bình 3 tấn/ha thì đầu tư
tổng cộng sẽ là 180-225 triệu/vụ. Nếu tôm bị chết thì mức độ thiệt hại tính
sơ bộ sẽ là 25-30% hoặc tương đương 60-70 triệu đồng. Nếu có được tôm
sú sạch bệnh, mức độ rủi ro sẽ giảm xuống đáng kể, vì một tỷ lệ lớn diện
tích mà trước đây bị nhiễ
m bệnh do tôm giống, khi sử dụng tôm sạch bệnh
4

thì sẽ được sử dụng có hiệu quả (không thể hoàn toàn loại bỏ vì có thể tôm
vẫn bị bệnh do nhóm giáp xác tự nhiên gây ra).
• Xã hội sẽ giảm bớt đầu tư cho sản xuất giống (khoảng 20-25%) từ đó sẽ
giảm đầu tư hạ tầng, đầu tư chi phí hoạt động, đầu tư năng lượng, mà vẫn
đảm bảo được sản lượng tôm cần thiế
t.
• Hiệu quả đầu tư của người sản xuất giống cao hơn, ổn định hơn (do tôm
sạch bệnh nên không bị kiểm dịch bắt tiêu huỷ, không mất chi phí mua
tôm bố mẹ bị bệnh, các chi phí thức ăn, điện không bị lãng phí), và người
nuôi cũng có thể tính toán hiệu quả.
• Giảm bớt lãng phí trong sử dụng nguồn lợi như nước, thức ăn, mặ
t đất,
năng lượng, hoá chất, tài chính… vì có giống tốt, sản xuất giống, nuôi có

túc các quy định), khả năng lây lan bệnh cho các khu vực khác hầu như
không có.
• Nếu giả sử có sự thất thoát ra môi trường tự nhiên, thì nhóm tôm sạch
bệnh sẽ không gây hại cho nhóm tôm tự nhiên vì bản thân nhóm tôm này
là sạch bệnh.
• Vì sử dụ
ng tôm gia hoá, nên sẽ không còn nhu cầu sử dụng tôm tự nhiên,
sẽ giảm bớt việc săn lùng, khai thác tôm bố mẹ tự nhiên, tạo điều kiện
nguồn lợi được tái tạo, bảo tồn.

6

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NGOÀI
NƯỚC
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Nghề nuôi tôm biển đã mang lại lợi ích kinh tế vô cùng quan trọng cho
nhiều quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước vùng Đông Nam châu Á,
Nam Mỹ. Giá trị thương phẩm của tôm cao, nên tuy sản lượng của tôm chiếm
3,7% sản lượng thuỷ hải sản nhưng giá trị thường đạt 16,5 % trong tổng giá
trị thương mại thuỷ sản (Global shrimp aquaculture consortium, 1999) [21].
Do giá trị của tôm cao như vậy, nên nhiều quốc gia đã dành nhiều ưu tiên cho
nghiên cứu để phát triển nuôi đối tượng này. Trong số các hướng nghiên cứu
được thực hiện trong ba thập niên qua, có lẽ nghiên cứu công nghệ sản xuất
tôm giống nhằm chủ động con giống cho nuôi thương phẩm, giảm thiểu sự

ở các nước Đông nam
châu Á như Philippines, Thái lan, Indonesia, Việt Nam.
 Mô hình trang trại quy mô vừa được hình thành trên nền tảng thiết kế
của người Nhật và được người Đài Loan ứng dụng rộng rãi cho nên
người ta thường gọi là trại giống nước xanh, hoặc mô hình trại Nhật
Bản, có các bể rộng, lớn, mật độ thả thưa, ít thay nước và tạo hệ sinh
thái trong bể ương. Tảo được cấy và gây nuôi trong bể
ương để cung
cấp thức ăn cho tôm. Thỉnh thoảng người ta bổ sung thêm dinh dưỡng
và vi khuẩn có lợi để nhóm vi khuẩn có lợi phát triển, cản trở sự phát
triển của nhóm vi khuẩn có hại. Phương pháp sinh thái như vậy được
xem là tạo ra những PL khoẻ mạnh nhờ có hệ sinh thái gần với điều
kiện tự nhiên và không có các hoá chất. Tỷ lệ sống trong hệ ương như
vậy th
ường đạt khoảng 40% hoặc thấp hơn.
 Hệ thống trại giống lớn có mức đầu tư hàng triệu đô la Mỹ, sử dụng
công nghệ thiết bị cao để sản xuất một lượng PL rất lớn trong môi
trường được kiểm soát nghiêm ngặt. Mô hình này lần đầu tiên được
phòng thí nghiệm Galveston, của Vụ thuỷ sản Mỹ hình thành và được
gọi là mô hình trại Galveston hoặc mô hình trại gi
ống phương Tây
8

hoặc trại giống “nước trong”. Trại giống này có các bể ương rất lớn từ
15-30m
3
, nước được xử lý và lọc kỹ, mật độ thả cao, tỷ lệ thay nước
cao, nên có ưu thế về kinh tế bởi lượng giống sản xuất nhiều, quanh
năm. Họ cũng nuôi tảo, artemia và thậm chí cho tôm ăn bằng thức ăn
công nghiệp, tỷ lệ sống thường đạt 50% hoặc trên 50% nhưng trong

vào nguồn khai thác tự nhiên. Phương pháp này cũng sẽ gây ra tác động tiêu
cự
c tới nguồn lợi do khai thác quá mức, hoặc nếu không kiểm soát chất lượng
tốt của tôm bố mẹ, có thể sẽ gây ra sự lây lan dịch bệnh cho các khu vực nuôi
(vì không thể kiểm soát toàn bộ nguồn tôm bố mẹ được khai thác), cũng do
phụ thuộc, nên quá trình gia hoá đàn tôm bố mẹ bị chậm trễ (Moss et al.,
2001) [41]. Ngoài ra, do không hoàn toàn chủ động ở khâu khai thác, nên khó
lòng có thể khẳng định được việc đáp ứng con giống cho sản xu
ất một cách
chủ động, do vậy thị trường tôm bố mẹ, tôm giống luôn luôn trong tình trạng
bất ổn. Mặt khác, khi truy xuất nguồn gốc xuất xứ đối với sản phẩm hàng hoá
trên thị trường, thì việc sử dụng tôm bố mẹ khai thác ngoài tự nhiên cũng sẽ
gặp các trở ngại lớn.
Phương pháp thứ 2 là phương pháp nuôi trong điều kiện môi trường
được kiểm tra nghiêm ngặt nhưng
đồng thời cũng khép kín vòng đời để tạo ra
các thế hệ tôm bố mẹ (lập được gia phả) và tiến tới nâng cao chất lượng di
truyền, mặc dầu đây là phương pháp tiên tiến, nhu cầu đầu tư cao, tốn kém
nhưng về lâu dài có thể đảm bảo chủ động quá trình sản xuất và cung cấp
giống có chất lượng (Benzie, 1998) [3]. Đối với tôm he chân trắng, phương
pháp thứ 2 này là phổ biến , nhưng
đối với tôm sú, việc gia hóa thí nghiệm đã
thành công, nhưng gia hóa mang tính thương mại thì vẫn đang trong giai đoạn
thử nghiệm.
Trong thực tế, đây là quá trình gia hoá để tôm thích nghi với cuộc sống
trong môi trường nhân tạo. Quá trình gia hoá thành công sẽ nâng cao mức độ
an toàn cho con giống sạch một số bệnh nguy hiểm cũng như sẽ thúc đẩy quá
10

trình chọn giống theo những đặc tính có lợi cho sản xuất (Argue and Alcivar-

11

mô thí nghiệm và đã thử nghiệm nuôi thương phẩm từ tôm PL của các thế hệ
này. Những kết quả trên đã được Wayne et. al. (2006) [71] công bố trong
thông báo mới đây cho thấy có tới 58% tôm sú hậu bị đã thành thục, mỗi một
tôm cái cho trung bình 310.000 trứng và tỷ lệ nở của trứng là 38% (120.000
nauplii). Preston (2006) [47] đã thử nuôi thương phẩm tôm sú từ PL ở thế
hệ thứ 3 tại các ao nuôi của trang trại “Gold Coast Marine Aquaculture” và
cho thấy kết quả t
ăng trọng và tỷ lệ sống của nhóm tôm này tốt hơn đáng kể
so với nhóm tôm đối chứng có nguồn gốc tự nhiên.
Các nhà khoa học người Thái Lan cũng đã có những nghiên cứu tương
tự và tạo ra được đàn tôm sú bố mẹ quy mô thí nghiệm. Người ta hy vọng
trong tương lai không xa họ có thể mở rộng quy mô và phạm vi nghiên cứu để
có đàn tôm sú bố mẹ nhiều hơn trên cơ sở đó có th
ể thương mại hoá đàn tôm
bố mẹ (Withyachumnarnkul et. al. 1998; Klinbunga, et. al., 2006) [73, 29].
Cũng phải bổ sung thêm rằng cùng với những thành công trong nghiên
cứu xây dựng công nghệ sản xuất giống (tôm, cá) nhiều khái niệm liên quan
đang được phát triển. Thí dụ gần đây khái niệm tôm sú giống sạch bệnh
(specific pathogent free-SPF) đã được đề cập và từng bước thâm nhập vào
quá trình sản xuất. Những tôm sạch bệnh là những tôm không có một số m
ầm
bệnh nguy hiểm (được xác định tuỳ tại thời điểm đó hoặc tuỳ quốc gia). Tuy
vậy chúng có thể mang những virus mà trước đó chưa được biết, hoặc PCR
không thể xác định (nhưng có thể phát hiện bằng phương pháp tế bào học)
hoặc có thể chứa một số loại virus mà không gây những bệnh nguy hiểm
trong cả quá trình hình thành công nghệ gia hoá (Lotz et al, 1995; Lotz, 1997)
[35,34]. Theo Moss (2005) [40], tiêu chí tôm sạch bệnh phải thoả
mãn ba

xuất năm 1985 (Gary, 1998) [19]. Ngày nay, mỗi quốc gia trên cơ sở văn hoá,
trình độ khoa học công nghệ của mình quy đị
nh các biện pháp, các giải pháp
“an toàn sinh học” cho phù hợp với điều kiện thực tế của nước mình. Trên
thực tế, nhiều quốc gia có các cách diễn đạt khác nhau, nhưng khái niệm của
13

cơ quan quản lý chăn nuôi của Vương quốc Anh cho lời giải thích đơn giản
hơn, cụ thể là:
An toàn sinh học là các giải pháp ngăn chặn các loại dịch bệnh do các
tác nhân gây bệnh thâm nhập hoặc có sẵn ở các cơ sở nuôi . An toàn sinh học
bao gồm các biện pháp và thủ tục được thiết kế để ngăn ngừa dịch bệnh do sự
thâm nhập hoặc hiện hữu của các tác nhân gây bệnh hoặ
c lan truyền của dịch
bệnh(www.defra.gov.uk/animalh/diseases/control/biosecurity/index.htm
) 76]
(www.affa.gov.au/biosecurityaustralia
) [75].
Như vậy các phương tiện thiết bị và các nguyên tắc vận hành hệ thống
an toàn sinh học trong trại giống là một giải pháp công nghệ cao để đảm bảo
sản xuất tôm sú giống sạch bệnh. Các phương tiện thiết bị được thiết kế nhằm
đảm bảo tính ổn định của các yếu tố môi trường, đồng thời loại bỏ các tác
nhân gây bệnh thâm nhập vào hệ thống
để tôm bố mẹ, ấu trùng có môi trường
phát triển an toàn nhất. Hệ thống thiết bị như nêu trên là hệ thống tuần hoàn
nước được tính toán cẩn thận với các phương tiện máy móc tách các phế thải,
giảm bớt lượng protein hoà tan trong nước, giảm tối đa các hợp chất nitơ và
có khả năng làm vô trùng nguồn nước của hệ thống.
Một trong những phương tiện quan trọng nhất để
đảm bảo an toàn sinh

chình thì chỉ có 21%. Số còn lại được đào thải qua hệ thống bài tiết và tiêu
hoá trong quá trình hoạt động sống. Malcolm (2004)[36] phân tích hiệu quả
sử dụng protein từ thức ăn của cá rô phi cũng thấy rằng chỉ khoảng 23,4%
protein trong thức ăn được sử dụng để phát triển cơ thể, số còn lại bị mất mát
do thức ăn thừa, cho quá trình bài tiết và tiêu hoá. Còn theo Leung et al.,
(1999- dẫn theo Pearson & Kenneth 2001)[45] thì lượng protein còn lại để
tăng trưởng của cá song nếu thức ăn là cá tạp chỉ là 12,3%.
Đối với việ
c nuôi trong môi trường bể nơi cơ bản không có các nhóm
thuỷ sinh khác ngoại trừ đối tượng nuôi và một số quần thể vi sinh thì một
phần thức ăn dư thừa, những phế thải trong quá trình trao đổi chất như khí
15

cácbonnic, amoniac và các gốc ni tơ (ammonia-nitrogen) nếu không bị loại bỏ
thì chính bản thân chúng sẽ lại tạo thêm khí cácbonnic (CO2), và amoniac,
các gốc muối ni tơ khác, làm giảm đáng kể lượng ôxy hoà tan trong nước và
sẽ đe doạ nguy hiểm, trực tiếp tới sức khoẻ của các đối tượng nuôi (Thomas
& others 1998, Ronald & others 1999) [59,53]. Trong số các hợp chất có gốc
nitơ gồm có NH4+ (ion ammoniac) thường giao động từ 60-90% và NH3
(ammoniac chưa được ion hoá) chiếm 10-40%. Lượng ammoniac (chưa được
ion hoá) tăng lên vớ
i sự tăng của pH, nhiệt độ nước (Emerson & Others 1975
dần theo Robert, 2000) [52]. Ngoài ra, nitơ còn trong hai dạng NO3- (nitrate)
và NO2- (nitrite). Ammoniac (NH3) và nitrite (NO2-) mang độc tính cao, mặc
dầu NO3- là hợp chất tiếp theo sau của NO2- trong quá trình nitơ hoá
ammoniac (NH3). Nói cách khác, nhóm vi khuẩn Nitrosomonas biến
ammoniac (NH3) thành nitrite (NO2-), sau đó nhóm vi khuẩn Nitrobacter lại
biến tiếp nitrite (NO2-) thành nitrate (NO3-). Tiếp theo một số nhóm vi khuẩn
như Pseudomonas, Achromobacter, Bacillus, Micrococcus và
Corynebacterium lại biến nitrate (NO3-) thành khí nitơ (N2) và thoát ra không

minh đăng ký tại Mỹ số 5.636.595), tạo điều kiện để chất cặn bã thường
xuyên được loại khỏi bể (theo Thomas 1999) [60]. Người ta cũng đã có những
cải tiến cho các bể nuôi dài (raceway) bằng cách cấu tạo thêm bể lắng cặn bã,
sao cho dòng nước tự chảy trong bể
nuôi có thể gom các chất cặn bã có tỷ
trọng 1,005-1,20 vào bể lắng để thải loại sau một số thời gian.
Việc tách các vật thể lơ lửng vẫn thường được xem là khó khăn và
người ta đã thiết kế màng lọc phẳng (bằng lưới inox hoặc lưới sợi polyester)
hoặc lọc trống với mắt lưới của màng lọc tuỳ thuộc vào đối tượng nuôi. Đã có
một số
loại máy lọc như máy lọc màng trống hoặc máy lọc “propeller washed
bead filter” đã được thiết kế và chế tạo và được thương mại hoá trên thị
trường.
Đối với hệ lọc sinh học ngoài việc tạo ra các giá thể có thể có diện tích
bề mặt để lọc từ 200m
2
/m
3
giá thể lên tới 900m
2
/m
3
và có khả năng tự làm


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status