Đề bài: Phân tích hai trích đoạn thơ: Bên kia sông Đuống Quê hương ta lúa nếp thơm nồng - Pdf 21



www.hoc360.vn

Đề bài: Phân tích hai trích đoạn thơ:
Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ g
à l
ợn nét tươi trong

Màu dân t
ộc sáng bừng tr
ên gi
ấy điệp

(
Bên kia sông Đuống
- Hoàng Cầm
, Văn học 12
, tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004,
tr.79)
Nh
ững người vợ nhớ chồng c
òn góp cho
Đất nước những núi Vọng Phu

C
ặp vợ chồng y


ở đâu tr
ên kh
ắp ruộng đồng g
ò bãi
Ch
ẳng mang một dáng h
ình, m
ột ao ước một lối sống ông cha

(
Đất nước
, trích chương V
trường ca Mặt đường khát vọng
- Nguyễn Khoa Điềm,
Văn học 12,
tập 1, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.249-250)
Bài làm
Chưa bao giờ trong dòng chảy của Văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt
thơ với những phát hiện độc đáo và xúc động viết về quê hương mình đã gắn bó trọn đời
trọn kiếp, vậy mà chỉ viết trong một đêm. Thế nên tất cả những hình ảnh, những cảm xúc
trong bài thơ đều là những hồi ức nóng bỏng, vừa là cháy đỏ yêu thương thắm nồng tình
cảm vừa là ngùn ngụt chí căm thù quân xâm lược.
Đoạn trích:
"Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ g
à l

Bức tranh quê hương hiện lên với phong cảnh đồng ruộng, bát ngát, hương thơm
bay thoang thoảng của lúa nếp. Đọc đến đây ta thấy quê hương của Hoàng Cầm có gì đó
thật gần gũi với mọi làng quê Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng thốt lên:
"Vi
ệt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông bi
ển lúa đâu trời đẹp hơn"

(Bài thơ Hắc Hải)
Nói về quê hương tác giả tràn ngập một niềm vui sướng tự hào. Cụm từ "quê hương
ta" đứng ngay đầu câu thơ gợi ra một niềm tự hào, kiêu hãnh về quê hương của tác giả.
Một quê hương tươi đẹp và trù phú, ấm no và yên bình. Hình ảnh "lúa nếp thơm nồng"
không chỉ gợi ra một khung cảnh quê hương giàu đẹp, ấm no, mùa màng tốt tươi mà còn
gợi lên truyền thống của quê hương.
Đó chắc hẳn là một làng quê giàu truyền thống hội hè, đình đám, những lễ hội. Một
Kinh Bắc cổ kính lâu đời. Không chỉ có vậy hình ảnh lúa nếp thơm nồng còn làm cho ta nhớ
tới những sự tích "bánh chưng, bánh dày", ta liên tưởng đến những con người hiếu nghĩa,
hiếu thảo. Có thể cái "nồng" ấy còn là cái nồng của cảm xúc của tình cảm tác giả.
Quê hương Kinh Bắc đâu chỉ có ấm no, trù phú ở đó còn có truyền thống văn hóa
lâu đời. Đó chính là tranh Đông Hồ một nét văn hóa dân gian nổi tiếng của quê hương Kinh
Bắc.
"Tranh Đông Hồ g
à l
ợn nét tươi trong"

Quê hương Hoàng Cầm là ở thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ - một làng nghề làm tranh
dân gian lâu đời. Người Kinh Bắc thuở xưa thường làm tranh để gửi vào đó những ước mơ,
khát vọng của mình về một cuộc sống ấm no. Câu thơ trên giới thiệu những bức tranh quê
hương với nét vẽ "gà lợn". Đó là cuộc sống của người dân, những con vật gần gũi với cuộc

của ông được viết trong những ngày tháng nóng bỏng của chiến trường Bình - Trị
- Thiên, đó là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ về vai trò của nhân dân, về trách nhiệm của thế hệ
trẻ hôm nay đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã thấm nhuần đất nước là máu xương của mình, đã "gắn bó và
san sẻ", đã "đi trả thù mà chẳng sợ dài lâu". Cho nên ta có thể thấy tư tưởng thấu suốt
trong chương thứ năm của trường ca "Mặt đương khát vọng" là đất nước của nhân dân, do
nhân dân. Tư tưởng này được thể hiện rõ trong đoạn trích:
"Nh
ững người vợ nhớ chồng c
òn góp cho
đất nước những núi Vọng Phu"

Ch
ẳng mang một dáng h
ình, m
ột lối sống ông cha"

Đó là sự cảm nhận đất nước về phương diện địa lý. Tất cả những dáng núi, hình
sông trên đất nước ta đều do nhân dân làm ra. Tác giả đã thể hiện tư tưởng này qua một
động từ, đó là "góp". Mọi người đều góp phần xây dựng đất nước. Chủ thể của động từ ấy
là những người vợ nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, gót ngựa Thánh Gióng, người học
trò nghèo và cả những người dân bình thường Họ đều là những con người hiếu nghĩa,
thủy chung, cũng giàu truyền thống hiếu học và cũng kiên cường, anh dũng lắm thay:
những núi Vọng Phu đất Tổ Hùng Vương, núi Bút, non Nghiên, ông Đốc, bà Điểm
Dường như bàn chân nhân dân đi đâu, bàn tay nhân dân xây đắp những gì nhân dân
đều hà hơi, thổi linh hồn mình vào đấy. Thế nên đất nước chứa đựng linh hồn của nhân
dân, chính là tâm hồn nhân dân đó. Tác giả còn khắc sâu tư tưởng đất nước của nhân dân
khi diễn tả những thứ nhân dân làm ra: đều có núi Bút, núi Vọng Phu, có Non Nghiên, có
dòng sông, ao đầm nơi nào cung có bàn tay nhân dân xây đắp. Và từ đó nhà thơ đi đến một
khái quát.

Khác với Hoàng Cầm, Nguyễn Khoa Điềm với tư tưởng đất nước của nhân dân đã
phải trải qua một quá trình chiêm nghiệrn thực tế mới rút ra được. Nhưng cả hai nhà thơ
đều chung nhau là tìm về những giá trị truyền thống của quê hương đất nước, những nét
văn hóa của làng quê phong cảnh đất nước và cả hai thi sĩ đều có chung một cảm xúc đầy
tự hào và yêu thương.
Đề tài về đất nước luôn luôn là một cảm hứng cho mọi nền văn học nhất là nền văn
học của một dân tộc mà tình yêu nước luôn luôn bị đem ra thử thách. Thành công về đề tài
này đã nhiều nhưng
Bên kia sông Đuống
của Hoàng Cầm và
Đất nước
của Nguyễn Khoa
Điềm vẫn có một tiếng nói riêng, một sự khám phá riêng với một phong cách riêng. Hai mặt
đất nước của nhân dân và đất nước giàu truyền thống, góp vào vườn thơ về đất nước như
hai bông hoa đẹp nhất tỏa hương thơm đến muôn đời, muôn thế hệ.
Trích từ bài văn đạt điểm 10 của Nguyễn Thị Tâm - kì thi Đại học 2005
Theo Ti
ền Phong, Gia đ
ình & xã h
ội


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status