đánh giá thực trạng rối loạn giọng nói của nữ giáo viên tiểu học thành phố thái nguyên và hiệu quả một số biện pháp can thiệp - Pdf 22



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRẦN DUY NINH

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIỌNG NÓI
CỦA NỮ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
VÀ HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG RỐI LOẠN GIỌNG NÓI
CỦA NỮ GIÁO VIÊN TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
VÀ HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
Chuyên ngành:
VỆ SINH HỌC XÃ HỘI VÀ TỔ CHỨC Y TẾ
Mã số: 62 72 73 15
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: - PGS.TS. Đàm Khải Hoàn
- PGS.TS. Trần Công Hòa

THÁI NGUYÊN - 2010

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bản luận án này, tôi xin được trân trọng cảm ơn Đảng ủy,
ban Giám đốc và ban Sau đại học - Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Đảng ủy, ban Giám hiệu và khoa Sau đại học
trường Đại học Y - Dược đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn, hỗ trợ về
vật chất và tinh thần để tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn tập thể bộ môn Tai mũi họng - Trường Đại
học Y- Dược và khoa Tai mũi họng - Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên
cùng toàn thể các học viên, sinh viên đã tận tình tham gia giúp đỡ trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cán bộ phòng Giáo dục và đào tạo thành phố
Thái Nguyên cùng toàn thể các giáo viên của các trường thành viên đã nhiệt tình
tham gia và phối hợp chặt chẽ trong suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đối với GS.TS. Ngô
Ngọc Liễn và GS.TS. Nguyễn Văn Lợi, PGS.TS. Đàm Khải Hoàn, PGS.TS.
Trần Công Hòa - những người thầy đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Duy Dương, các thầy cô, bạn bè
và đồng nghiệp đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi vượt qua khó khăn
để hoàn thành luận án.
Tôi xin cảm ơn và chia sẻ những thành quả đạt được ngày hôm nay với
cha mẹ tôi, vợ con tôi, anh em và những người thân trong gia đình đã có
những đóng góp cho sự thành công của luận án này.
Xin trân trọng cảm ơn!

3
Chương 1. TỔNG QUAN
3
1.1. Giọng nói
3
1.2. Rối loạn giọng nói (Voice disorder)
9
1.3. Điều trị rối loạn giọng nói ở giáo viên
22
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
26
2.1. Thiết kế nghiên cứu
26
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
26
2.3. Đối tượng nghiên cứu
26
2.4. Nội dung nghiên cứu
27
2.5. Cỡ mẫu nghiên cứu
31
2.6. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu
33
2.7. Các chỉ số nghiên cứu
34
2.8. Kỹ thuật thu thập và xử lý thông tin
38
2.9. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
43
2.10. Biện pháp khống chế sai số

ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên v
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BGTQ Bệnh giọng thanh quản
CSHQ Chỉ số hiệu quả
CS Cộng sự
CSSKGN Chăm sóc sức khỏe giọng nói
Fo Fundamental frequency - Tần số cơ bản
GD-ĐT Giáo dục và đào tạo
GV Giáo viên
GVTH Giáo viên tiểu học
HNR Harmonic To Noise Ratio - Tỷ lệ tiếng thanh và tiếng ồn


Tên bảng Trang
3.1 Tuổi đời và tuổi nghề của giáo viên 45
3.2 Phân công dạy học của giáo viên 48
3.3 Hiểu biết của giáo viên về giọng nói 51
3.4 Thái độ của giáo viên đối với giọng nói 52
3.5 Thực hành vệ sinh giọng nói của giáo viên 53
3.6 Liên quan giữa kiến thức của giáo viên với bệnh giọng thanh quản 54
3.7 Liên quan giữa thái độ của giáo viên với bệnh giọng thanh quản 55
3.8 Liên quan giữa thực hành của giáo viên với bệnh giọng
thanh quản
55
3.9 Liên quan giữa kiến thức - thái độ và thực hành của giáo viên
với bệnh giọng thanh quản
55
3.10 Kết quả tổng hợp về cường độ tiếng ồn trong trường học 56
3.11 Kết quả tổng hợp về cường độ tiếng ồn trong lớp học 56
3.12 Kết quả tổng hợp về cường độ giọng nói của giáo viên khi
giảng bài
57
3.13 Liên quan giữa tuổi nghề của giáo viên với bệnh giọng thanh quản 57
3.14 Liên quan giữa số tiết dạy học với bệnh giọng thanh quản 57
3.15 Liên quan giữa đối tượng dạy học với bệnh giọng thanh quản 58
3.16 Liên quan của hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản với
bệnh giọng thanh quản
58
3.17 Tỷ lệ mắc rối loạn giọng nói theo mùa 58
3.18 Tần suất mắc rối loạn giọng nói theo mùa 59
3.19 Trung bình số triệu chứng rối loạn giọng nói trên một giáo viên 59
3.20 Yếu tố mùa đối với bệnh giọng thanh quản của giáo viên 59

68
3.30 Ảnh hưởng của rối loạn giọng nói ở nữ giáo viên trước và
sau can thiệp
69
3.31 Kết quả phân tích âm học tại thời điểm bắt đầu 69
3.32 Kết quả phân tích âm học tại thời điểm kết thúc 70
3.33 Đánh giá hiệu quả can thiệp rối loạn giọng nói qua kết quả
phân tích âm học
71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên viii
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ Tên biểu đồ Trang
3.1 Đối tượng nghiên cứu xếp theo dân tộc 45
3.2 Đối tượng nghiên cứu xếp theo trình độ học vấn 45
3.3 Phân loại đối tượng nghiên cứu theo trình độ được đào tạo 46
3.4 Đối tượng nghiên cứu xếp theo tuổi nghề 46
3.5 Số ngày tham gia dạy học trung bình trong một tuần 46
ix

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 1
-
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự xuất hiện của tiếng nói như một mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
văn minh của xã hội loài người và không thể thiếu trong mọi ngôn ngữ [131]. Đối
với giao tiếp, giọng nói không chỉ đơn thuần là phương tiện chuyển tải nội dung
của thông điệp mà còn phản ánh rất nhiều thông tin khác nhau từ người nói như:
tuổi tác, giới tính, nguồn gốc xuất xứ, nghề nghiệp, địa vị xã hội, tâm trạng cảm
xúc, tình trạng sức khỏe Giọng nói cũng đóng vai trò như một công cụ lao
động chính của nhiều ngành nghề như: giáo viên (GV), ca sĩ, nhân viên bán
hàng, luật sư, phát thanh viên Theo Mathieson L. trong xã hội hiện đại có trên
30% lực lượng lao động phải sử dụng giọng nói như một công cụ chính để kiếm
sống [103], [153]. Việc sở hữu một giọng nói bình thường không chỉ giúp giao
tiếp xã hội hiệu quả mà còn bảo đảm cho những người sử dụng giọng nói chuyên
nghiệp duy trì được hiệu suất lao động tốt.
Tuy nhiên, giọng nói có thể bị tác động bởi nhiều yếu tố nguy cơ, đưa đến
các rối loạn, nhất là trên những người sử dụng giọng nói chuyên nghiệp. Rối loạn
giọng nói (RLGN) do nguyên nhân ở thanh quản có thể chỉ là những triệu chứng
đơn lẻ về chất giọng hay một vài khó chịu trong quá trình phát âm, nhưng cũng có
thể là những bệnh lý thực sự ở thanh quản (Bệnh giọng thanh quản - BGTQ). Một
trong những nghề chịu tác động lớn của RLGN là GV, đối với họ BGTQ gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến công việc, giao tiếp và là mối nguy cơ khiến họ phải nghỉ
việc hoặc thậm chí chuyển nghề (Smith E. và cộng sự (CS) 1997) [141]. Trong

giọng nói của mình có vấn đề. Nghiên cứu tại cộng đồng sẽ giúp GV được bổ
sung các kiến thức và kỹ năng sử dụng giọng nói một cách hợp lý, biết cách
phòng ngừa và phát hiện bệnh giọng sớm khi các rối loạn chưa gây ra hậu quả
nặng nề. Ngoài ra, các nghiên cứu đánh giá, sàng lọc và can thiệp tại cộng đồng
cũng sẽ giúp GV duy trì tốt công việc của mình mà không phải bỏ thời gian
giảng dạy để đi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, góp phần quan trọng làm
giảm áp lực tại các bệnh viện.
Đề tài được tiến hành với các mục tiêu:
1. Đánh giá thực trạng rối loạn giọng nói của nữ giáo viên tiểu học
thành phố Thái Nguyên từ năm 2006 - 2008.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến rối loạn giọng nói của nữ giáo
viên tiểu học.
3. Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp nhằm cải thiện sức
khỏe giọng nói của nữ giáo viên tiểu học thành phố Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 3
-
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Giọng nói
1.1.1. Khái niệm về giọng nói
Giọng nói là tín hiệu âm học được tạo ra bởi thanh quản và bộ máy phát
âm. Quá trình hít thở không khí qua khe thanh môn và việc tạo ra tiếng nói được
gọi là phát âm.
Giọng nói bình thường có được là do sự toàn vẹn về giải phẫu của cơ quan
phát âm và các bộ phận liên quan, chúng hoạt động gần như đồng thời và thống
nhất với nhau dưới sự điều khiển của hệ thống thần kinh trung ương. Đặc điểm

- Người nói có thể tự tin về cách diễn đạt giọng nói của mình.
- Có sự linh hoạt về độ cao, độ to và chất lượng của giọng nói.
- Giọng nói phải dẻo dai để có thể thường xuyên được vận dụng trong
công việc và cuộc sống thường nhật mà không bị suy yếu.
- Giọng nói bình thường khi phát âm phải thoải mái [103].
1.1.3. Vài nét về giải phẫu cơ quan phát âm
Cơ quan phát âm được phân chia thành ba bộ phận chính [22], [121]:
- Bộ phận hô hấp dưới: tạo luồng hơi phát âm.
- Bộ phận rung (thanh quản): tạo ra âm thanh.
- Bộ phận hô hấp trên: cộng hưởng và cấu âm, tạo ra âm thanh tiếng nói.
1.1.3.1. Bộ phận hô hấp dưới
Sự phát sinh ra âm thanh trong thanh quản phụ thuộc vào sự phối hợp của
hệ thống hô hấp dưới và thanh quản, với mức áp lực không khí thích hợp, dung
lượng khí và luồng không khí là cơ sở để phát âm và phát âm rõ ràng. Quá trình
thở ảnh hưởng tới phát âm, nhưng ngược lại, hành vi phát âm của thanh quản
cũng ảnh hưởng tới phương thức thở. Mô hình thở bị rối loạn sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọng đối với giọng nói, nhưng sự đóng và mở của dây thanh chắc chắn
cũng ảnh hưởng tới mô hình thở.
Bộ phận hô hấp dưới bao gồm:
* Khung xương ngực: là nơi chứa phổi và cung cấp dàn chuyển động cho
các cơ hô hấp bám dính.
* Các cơ của ngực: các cơ ngực tham gia vào việc mở rộng, co khép ngực
và phổi, cũng như duy trì sự di chuyển đều đặn khi hít vào và thở ra.
* Các cơ bụng: là các cơ hoạt động chính tạo ra lực khi thở ra, trong đó
đặc biệt là vai trò của cơ hoành.
* Các cơ hô hấp phụ: các cơ này hỗ trợ cho việc nâng xương sườn [56].
* Cây khí phế quản - phổi: khí quản tiếp giáp với thanh quản ở phía trên,
được cấu tạo bởi các vòng sụn không đầy đủ và được nối với nhau bởi các màng
sợi chun. Cấu trúc này cho phép khí quản di chuyển dễ dàng trong khi nuốt và
khi hít vào. Trong lòng khí quản được bao phủ bởi một lớp biểu mô có lông

động tác phát âm. Sự hoạt động quá mức của thanh quản sẽ gây hiện tượng căng các cơ
vùng cổ, vùng dưới cằm mà người ta có thể cảm nhận rõ khi đặt ngón tay lên các vùng
đó. Đồng thời sự căng cơ quá mức kéo dài, gây c
ảm giác đau, mỏi khi phát âm.
- Các cơ trong: nhóm cơ này quan trọng hơn vì có nhiệm vụ trực tiếp điều
khiển hoạt động rung thanh - sự tạo thanh (phonation) của thanh quản. Do đó
người ta thường gọi tên nhóm này là “nhóm cơ phát âm”, trong đó quan trọng
nhất là cơ dây thanh.
Các cơ phát âm hoạt động hài hòa làm các dây thanh khép kín, khi có tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 6
-
động của luồng hơi phát âm (từ dưới lên) sẽ tạo ra các rung thanh. Ngược lại
phát âm quá mức sẽ làm các dây thanh quá căng gây co thắt, hoặc quá trùng gây
khe hở thanh môn. Điều đó làm cho người nói có cảm giác căng, đau, nói khàn,
hụt hơi, nói mau mệt và giọng nói có hơi thở. Khi khám thanh quản bằng nội soi
sẽ đánh giá được hiện tượng này.
* Mô học dây thanh: dây thanh rất chun giãn và có cấu trúc mô học rất
phức tạp (Hirano 1993). Cấu trúc phức tạp này góp phần vào việc thay đổi giọng nói,
dao động rộng cường độ âm thanh, dung lượng và chất lượng âm thanh [149].
Dây thanh có 3 lớp:
- Lớp ngoài của dây thanh chủ yếu là lớp biểu mô trụ có lông chuyển, tuy nhiên
mép giữa được bao phủ bởi lớp biểu mô lát tầng để chống lại ảnh hưởng của các sang
chấn do phát âm. Hình dáng cả dây thanh được duy trì bảo tồn bởi lớp ngoài. Phía
dưới của lớp biểu mô có ba lớp tổ chức liên kết được gọi là lamina propria.
Lớp bề mặt trên của lamina propria là một chất nền có các sợi lỏng lẻo mà
Hirano M. (1981) ví như chất gelatin. Đây là khoảng trống Reinke, khoảng trống
này rung rất mạnh trong thời gian phát âm (Hirano M., Kimminori S. (1993). Nó

1.1.3.4. Thần kinh chi phối cơ quan phát âm
Cơ quan phát âm được chi phối bởi các dây thần kinh V, VII, IX, X, XI,
XII và giao cảm cổ. Các trung khu phát âm ở vùng thân não và vỏ não [10].
1.1.4. Cơ chế phát âm và các thuộc tính vật lý của giọng nói
1.1.4.1. Cơ chế

phát âm
Quá trình tạo ra tiếng nói (speech production) rất phức tạp, cần có sự phối
hợp nhịp nhàng và đồng bộ của nhiều cơ quan khác nhau.
Trước tiên phải có sự hình dung ý nghĩ, ý tưởng hiện ra trong não bộ bằng
ngôn ngữ nội tâm (giai đoạn trí não tâm lý). Từ đây chuyển sang giai đoạn cơ
động phát âm của thần kinh trung ương, phát ra những luồng thần kinh đi vào
các nhân của các dây IX, X, XI, XII và VII, từ đó sẽ đi ra ngoại biên và điều
khiển các bộ phận thuộc cơ quan phát âm: bộ phận hô hấp, thanh quản, bộ phận
cộng hưởng và cấu âm [3], [13], [18], [35], [126].
Sinh lý phát âm nhìn chung là kết quả của sự kết hợp ba quá trình cơ bản:
- Quá trình tạo một luồng hơi từ phổi đi ra, tức là tạo ra nguồn lực phát âm
và là động lực cần thiết để duy trì các rung động của dây thanh.
- Quá trình rung động của hai dây thanh để tạo ra nguồn thanh, gọi là quá
trình tạo thanh (phonation). Tạo thanh là thuật ngữ để miêu tả cách điều phối các
cơ ở thanh quản, tạo nên những thay đổi khi dòng khí đi qua khe thanh môn.
Liên quan đến quá trình tạo thanh là hoạt động đóng (abduction), mở (adduction),
căng và trùng của dây thanh. Phương thức tạo thanh khác nhau sẽ tạo ra nguồn
năng lượng âm học của tín hiệu lời nói có phẩm chất thanh tính (voice quality)
khác nhau về mặt vật lý cũng như âm học.
- Quá trình điều tiết những rung thanh này bởi các bộ phận mũi, họng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 8

- 9
-
khàn (hoarsness), Baken R. J. (1987) và nhiều tác giả khác nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc xác định chỉ số shimmer trong việc đánh giá các RLGN [47].
Âm sắc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất thanh trong quá trình tạo
thanh (phonation), cũng như cấu trúc formant liên quan đến sự cộng hưởng.
* Chất thanh (Voice quality): chất thanh phụ thuộc vào sự tạo thanh, cách
khép lại của hai dây thanh, đặc biệt ở diện khép, thời điểm khép và sức khép:
khép phải mạnh, nhanh gọn đồng thời với mở ra nhanh gọn, kết quả tạo ra một
chất thanh sáng, rõ, trong trẻo. Những tổn thương, khuyết tật trong cấu trúc hay
chức năng thanh quản sẽ ảnh hưởng đến sự tạo thanh, tạo ra những biểu hiện
giọng nói không bình thường. Để đánh giá chất thanh, người ta thường dựa vào
chỉ số HNR (Harmonic To Noise Ratio - tỷ lệ tiếng thanh và tiếng ồn).
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây đã xuất hiện một số nghiên cứu
về các thông số của giọng nói ở người có giọng nói bình thường và người có
RLGN [12], [118], [119], [120].
1.2. Rối loạn giọng nói (Voice disorder)
1.2.1. Khái niệm về rối loạn giọng nói
Khi có thay đổi ở một trong các bộ phận của cơ quan phát âm, đều gây
nên những RLGN, trong đó RLGN do nguyên nhân ở thanh quản chiếm đa số
các trường hợp [39].
Hegde M. N. [74] đã đưa ra định nghĩa về RLGN: các rối loạn trong giao
tiếp liên quan đến sự tổn thương, khiếm khuyết ở thanh quản hay hoạt động tạo
thanh không bình thường, không phù hợp liên quan đến độ cao (pitch), cường độ
(intensity) hay chất thanh (voice quality). Rối loạn giọng nói có thể ở những mức
độ khác nhau từ hỏng giọng (dysphonia - giọng nói có những biểu hiện bệnh lý
nói chung), đến mất giọng (aphonia - mất giọng hoàn toàn do dây thanh không
rung động trong quá trình tạo thanh).
1.2.2. Dịch tễ học rối loạn giọng nói
1.2.2.1. Nghiên cứu dịch tễ học rối loạn giọng nói trên thế giới

rệt. Phân tích những số liệu được thống kê từ nhiều nghiên cứu khác, Ramig L. O.
và Verdolini K. (1998) [127] đã đưa ra nhận xét tương tự: RLGN cường năng
(hyperfuntional dysphonia) (do hành vi) đứng hàng đầu trong các RLGN và
thường gặp ở những người phải sử dụng giọng nói một cách quá mức.
Tham khảo số liệu của vụ Thống kê lao động và các nguồn khác ở Mỹ (số
liệu 1994), Ingo R. và CS (1997) [81] đã kết luận: những người bán hàng chiếm
tỷ lệ lớn nhất trong số những người lao động sử dụng giọng nói chuyên nghiệp
(13%), thứ hai là GV (4,2%). Trong đó, GV được xác định là nghề có tỷ lệ mắc
RLGN lớn nhất.
Bozena K. H. [54] nghiên cứu trên 374 bệnh nhân đã được điều trị tại
phòng khám tai mũi họng và phòng khám thanh học của khoa tai mũi họng,
trường đại học Y Bialystock - Ba Lan, trong thời gian 1999 - 2001. Trong đó có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 11
-
309 bệnh nhân sử dụng giọng nói chuyên nghiệp và 65 người làm những nghề
khác. Tác giả đã nhận xét: những GVTH và GV THCS với độ tuổi trung bình là 43,
chiếm chủ yếu ở những đối tượng sử dụng giọng nói chuyên nghiệp và họ mắc RLGN
chức năng phổ biến hơn.
Tìm hiểu về tần suất mắc RLGN ở GV, Smith E. và CS đã tiến hành
nghiên cứu trên hai nhóm. Nhóm 1 gồm 554 GVTH và GV trung học phổ thông,
nhóm 2 là 220 người làm những nghề khác. Các tác giả đã ghi nhận: tiền sử mắc,
tần suất mắc và số hiện mắc các RLGN của GV đều cao hơn những người làm
nghề khác (p<0,05) [142].
Phân tích từ bộ câu hỏi gồm 85 mục được trả lời từ 550 GVTH ở 42 trường
quanh vùng Dublin,
Munier C. và Kinsella R. đã thu được kết quả như sau: 27% có
RLGN liên tục, 53% có RLGN từng đợt, trong khi đó chỉ có 20% không có vấn đề gì

gián tiếp qua gương soi. Kết quả cho thấy 20,45% GV có các tổn thương thực
thể ở thanh quản [19].
Năm 2006, Ngô Ngọc Liễn và CS [21] đã tiến hành nghiên cứu về RLGN
trên 1033 nữ GVTH đại diện cho các vùng, miền trên toàn quốc. Với phương
pháp điều tra cắt ngang, các tác giả đã tiến hành phỏng vấn các đối tượng nghiên
cứu, thăm khám thanh quản bằng nội soi. Kết quả cho thấy tỷ lệ có tổn thương
thực thể ở thanh quản là 20,81%. Các RLGN chức năng chưa được đề cập đến
trong nghiên cứu này.
Như vậy, có thể nói rằng RLGN rất thường gặp ở Việt Nam cũng như trên
thế giới, điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng cuộc sống và hoạt
động nghề nghiệp của người bệnh. Đối với GV, chất lượng giọng nói của họ còn
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của công tác đào tạo cho các thế hệ học sinh.
1.2.3. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ rối loạn giọng nói
Do tính chất phổ biến và phức tạp của RLGN, đã thu hút nhiều nhà khoa học
đi sâu tìm hiểu về nguyên nhân của chứng bệnh này trên nhiều khía cạnh khác nhau.
* Cấu trúc giải phẫu của thanh quản: khe hở thanh môn bất thường (do bẩm
sinh, do liệt dây thần kinh và đặc biệt do sự mất kiểm soát, điều phối hoạt động của
các sụn, các cơ trong quá trình phát âm do lạm dụng giọng), đã gây ảnh hưởng tới
khí động học trong đường phát âm, khí áp hạ thanh môn. Đó có thể là yếu tố khởi
đầu của RLGN và cũng có thể là diễn biến của RLGN, làm cho tình trạng bệnh ngày
càng gia tăng. Điều đó đã được tổng kết bởi: Woodson G. E. [158]; Koichi O. [93];
Schneider B. [135]; Anne E. [46]. Từ cơ sở trên Christy L. [62] đã thành công khi
nghiên cứu áp dụng biện pháp kích thích điện đến cơ giáp - nhẫn để duy trì sự kiểm
soát việc khép thanh môn trong bệnh MTD (muscle tension dysphonia).
* Sóng niêm mạc dây thanh: rối loạn hoạt động của hệ thống màng nhày -
lông chuyển trên bề mặt niêm mạc của dây thanh đã được Gerald S. [71] đề cập
đến trên những bệnh nhân sau phẫu thuật dây thanh; Benjamin K. [49], Marcie K. M.,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu trên các khía cạnh khác nhau: Nelson R.
cho rằng GV phải làm việc trong môi trường quá ồn ào [116]; Williams N. R. lại
đề cập tới vấn đề tiếp xúc với hóa chất [155]; Elaine S. [66] cho rằng GV bị phơi
nhiễm đối với những trẻ em có nhiễm trùng đường hô hấp trên
* Thói quen sinh hoạt: theo nhận xét của Julian P. L., GV hút thuốc hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên - 14
-
ngày có nguy cơ RLGN cao hơn so với người không hút thuốc (OR=2,31;
CI=1,58 - 3,37), những GV có thói quen uống cà phê hoặc nước trà hàng ngày cũng có
nguy cơ RLGN nhiều hơn những người không uống (OR=1,87; CI=1,36 - 2,56). Thói
quen hút thuốc hoặc uống các chất có cà phê (cà phê, chè, cocacola, pepsi ), sẽ
làm khô họng, ảnh hưởng đến sự hoạt động của hệ thống màng nhày - lông
chuyển của thanh quản, làm cho thanh quản dễ bị tổn thương [89].
* Các bệnh lý kết hợp: một trong những bệnh lý gây kích thích thanh quản
được đề cập đến nhiều nhất là hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản. Trong
một nghiên cứu của James A. [83] đã kết luận: “Triệu chứng trào ngược dạ dày - thực
quản xuất hiện ít nhất 50% trong số bệnh nhân rối loạn giọng nói tại trung tâm y
tế của chúng tôi”.
Nghiên cứu trên 39 bệnh nhân bị mắc hội chứng kích thích thanh quản
Morrison M. [111] đã nhận thấy hầu hết các bệnh nhân này (>90%) bị mắc
chứng trào ngược dạ dày - thực quản, 1/3 số bệnh nhân bị nhiễm virus. Giả
thuyết được tác giả đưa ra là do sự thay đổi plastic của các tế bào đường hô hấp
có thể dẫn đến sự hoạt động khác thường của thanh quản.
Ngoài hội chứng trào ngược dạ dày - thực quản đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm ở trên, Mathieson L. còn đề cập tới nguyên nhân nghe kém, theo tác giả
những GV có vấn đề về nghe sẽ ảnh hưởng đến nói theo phản xạ nghe - nói [104].
* Do đặc thù nghề nghiệp, giáo viên phải sử dụng giọng nói quá mức:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status