Bài giảng tâm lý học sư phạm phần 1 - Pdf 24


TRANG 1 BÀI GIẢNG

TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM

TRANG 2


1. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 32
2. SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 35
3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH CHỦ YỂU CỦA LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG 38
CÂU HỎI ÔN TẬP 43
CHƯƠNG III. TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI SINH VIÊN 44
1. NHỮNG ĐIỀU KIỆN ẢHH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ CỦA LỨA TUÔI
SINH VIÊN 44
2. ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ CƠ BẢN CỦA LỨA TUỔI SINH VIÊN 48
3. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN CÁCH CHỦ YẾU CỦA LỨA TUỔI SINH VIÊN 52
CÂU HỎI ÔN TẬP 61
PHẦN II. TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG I. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC Error! Bookmark not defined.
1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC Error! Bookmark not defined.
2. HÌNH THÀNH HOẠT ĐỘNG HỌC Error! Bookmark not defined.
3. CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC LĨNH HỘI TRI THỨC, CÁC PHƯƠNG THỨC
HÀNH ĐỘNG VÀ PHƯƠNG THỨC TƯ DUY Error! Bookmark not defined.
CÂU HỎI ÔN TẬP Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG II. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN Error! Bookmark not
defined.
1. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGHỀ DẠY HỌC Error! Bookmark not defined.
2. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN Error! Bookmark not defined.
3. MỘT SỐ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN Error! Bookmark not
defined.
4. NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN Error! Bookmark not defined.
5. UY TÍN CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN Error! Bookmark not defined.
6. CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH PHẨM CHẤT VÀ NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO
VIÊN Error! Bookmark not defined.
CÂU HỎI ÔN TẬP Error! Bookmark not defined.

sinh lý thần kinh và não bộ con người. Có thể nói, tư tưởng của S.Darwin,
I.M.Xêtrênôp đã góp phần làm rõ vấn đề về nguồn gốc phát triển tâm lý con người;

1
K.D.Usinxki. Tuyển tập. tập 8. Nhà xuất bản viện khoa học giáo dục nước cộng hòa liên bang Nga. 1950. trang 55 (tiếng
Nga).

TRANG 5

các con đường, quy luật, điều kiện và động lực của sự phát triển tâm lý; vai trò của
dạy học, giáo dục đối với sự hình thành và phát triển tâm lý con người, qua đó góp
phần thúc đẩy hai chuyên ngành Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm tại thời
điểm lúc đó phát triển mạnh mẽ hơn.
Cùng với những thành tựu trên, các công trình nghiên cứu dựa trên sự tích lũy
và tổng kết kinh nghiệm của những quan sát về sự phát triển tâm lý trẻ em và tâm lý
học giáo dục trẻ đã đặt nền móng cơ sở thực tiễn cho Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý
học sư phạm lúc bấy giờ. Những kết quả nghiên cứu trong Tâm lý học đại cương
như Quy luật tâm lý của Weber và Feisner, nghiên cứu Trí nhớ của Ebbinhauz,
nghiên cứu cảm giác và vận động trong tâm lý học của W.Wundt bắt đầu thâm
nhập vào Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ngoài ra, những tác phẩm đầu
tiên về Tâm lý học sư phạm như Tâm lý học sư phạm của nhà giáo dục, nhà tâm lý
học Nga P.P.Karterev, Nói chuyện với các giáo viên về Tâm lý học của nhà tâm lý
học Mỹ W.James đã mở ra triển vọng cho sự phát triển của chuyên ngành này.
Năm 1906, ở Nga đã tổ chức Hội nghị Tâm lý học sư phạm lần thứ nhất tại
Peterburg. Tại hội nghị này, người ta kịch liệt phê phán tính lý luận sáo rỗng trong
Tâm lý học sư phạm và khẳng định phải có nghiên cứu thực nghiệm về Tâm lý học
lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Các nhà tâm lý học và giáo dục học cũng cho rắng,
cần phải chỉ ra nguồn gốc phát triển tâm lý trong quan hệ của nó với quá trình dạy
học.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Tâm lý học sư phạm và Tâm lý học

. Luận điểm này của
L.X.Vưgôtxki đã được các nhà tâm lý học thừa nhận và cụ thể hóa trong các công
trình nghiên cứu lý luận và thực nghiệm, góp phần xây dựng và phát triển Tâm lý
học lứa tuổi, Tâm lý học sư phạm có kết quả.
Sự trưởng thành của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sự phạm gắn liền với
tên tuổi của nhiều nhà tâm lý học ở nhiều nước, đặc biệt là các nhà tâm lý học như
A.N.Lêônchiev, Đ.B.Encônhin, A.A.Liublinxcaia, J.Bruner, J.Piaget, H.Wallon,
P.Janet Ngày nay, Tâm lý học lứa tuổi được nghiên cứu với những quan điểm mới
về tâm lý học phát triển, nghiên cứu sự hình thành con người từ trong bào thai cho
đến suốt cuộc đời, gắn liền với nền văn hóa xã hội lịch sử và các tiến bộ xã hội của
nền văn minh nhân loại, của giáo dục hiện đại. 1
A.X.Macarencô. Toàn tập. Tập V. Trang 91 (Tiếng Nga)

2
L.X.Vưgôtxki. Sự phát triển chức năng tâm lý bậc cao. Tiếng Nga. M. 1960. Trang 197-198

TRANG 7

2. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA TÂM
LÝ HỌC LỨA TUỔI VÀ TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
2.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là hai lĩnh vực tâm lý học gắn bó
chặt chẽ với nhau trong hoạt động sư phạm, hoạt động giáo dục. Đây là hai chuyên
ngành cơ bản, phát triển sớm nhất của khoa học tâm lý. Chúng có đối tượng nghiên
cứu xác định mặc dù chúng có chung khách thể là con người trong sự phát triển tâm
lý ở các giai đoạn phát triển của nó.
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi

Tâm lý học sư phạm nghiên cứu các đặc điểm tâm lý, các quy luật tâm lý của
việc dạy học và giáo dục, nghiên cứu cơ sở tâm lý của quá trình lĩnh hội tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, các phẩm chất trí tuệ và nhân cách người học. Đồng thời, tâm lý học
sư phạm cũng nghiên cứu các yếu tố tâm lý về phía người làm công tác giáo dục,
những vấn đề tâm lý của mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng như quan hệ
qua lại giữa học sinh với nhau.
Ngoài ra, việc vạch ra nội dung tâm lý, cơ sở tâm lý của quá trình dạy học và
giáo dục của Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm còn tạo ra cơ sở khoa học cho việc xác
định nguyên tắc, hệ thống phương pháp, biện pháp tiến hành điều khiển quá trình
dạy học, giáo dục nhằm hình thành và phát triển trí tuệ, nhân cách người học tới mức
cao nhất, đem lại hiệu quả trong dạy học và giáo dục.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm
2.2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học lứa tuổi
- Tâm lý học lứa tuổi chỉ ra các đặc điểm tâm lý của con người được hình thành
và phát triển trong từng giai đoạn lứa tuổi và trong suốt cuộc đời, những quy
luật hình thành và biểu hiện tâm lý của con người trong mỗi giai đoạn phát
triển tâm lý, chỉ ra các điều kiện, động lực của sự phát triển tâm lý.
- Tâm lý học lứa tuổi cung cấp cơ sở tâm lý lứa tuổi của việc vận dụng các
nguyên tắc, phương pháp, biện pháp dạy học và giáo dục phù hợp với đặc
điểm và quy luật tâm lý lứa tuổi, tổ chức hợp lý quá trình sư phạm nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học và giáo dục.
- Tâm lý học lứa tuổi không những cung cấp cơ sở tâm lý cho giáo viên trong
hoạt động sư phạm mà còn giúp giáo viên, các nhà giáo dục có phương pháp
đối xử khéo léo với đồng nghiệp, học sinh và tự rèn luyện, tự hoàn thiện bản
thân.

TRANG 9

2.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Tâm lý học sư phạm
Nhiệm vụ chung của Tâm lý học sư phạm là dựa trên những thành tựu của

Trong các phương pháp trên, phương pháp nghiên cứu cơ bản của Tâm lý học
lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm là phương pháp quan sát và phương pháp thực
nghiệm.
2.3.1. Phương pháp quan sát.
Xuất phát từ việc những biểu hiện tâm lý của con người thường được thể hiện
qua lời nói, cử chỉ, hành vi và hoạt động nên trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý
học sư phạm quan sát được coi là phương pháp nghiên cứu cơ bản, đầu tiên.
Quan sát là quá trình tri giác, theo dõi có mục đích, có kế hoạch sự nảy sinh,
diễn biến và thể hiện tâm lý của trẻ qua hành vi bên ngoài trong điều kiên tự nhiên.
Nhà nghiên cứu cần ghi lại một cách nghiêm túc, khách quan những sự kiện thu
được. Kết quả quan sát tùy thuộc vào việc xác định rõ ràng mục đích, nội dung quan
sát và chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho sự quan sát.
Cần tổ chức việc quan sát đáp ứng được các yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản
sau đây:
- Quan sát những biểu hiện tâm lý của học sinh trong điều kiện tự nhiên của
cuộc sống, nhất là trong hoạt động vui chơi, học tập, lao động và quan hệ giao
tiếp. Việc sử dụng kết quả của phương pháp quan sát không chỉ để giáo dục
học sinh mà quan trọng hơn là chính trong quá trình dạy học và giáo dục học
sinh, giáo viên vừa giáo dục, vừa nghiên cứu, vùa nghiên cứu vừa giáo dục,
hướng học sinh vào vùng phát triển gần nhất.
- Cần quan sát một cách có hệ thống xuất phát từ nguyên tắc về tính toàn vẹn
của nhân cách. Xem xét những biểu hiện tâm lý cụ thể của học sinh trong
những hoàn cảnh cụ thể, riêng biệt của nhân cách đang phát triển cũng như
những biểu hiện tâm lý cụ thể trong mối quan hệ với các mặt khác của nhân
cách.
- Quan sát phải đảm bảo tính khách quan. Việc ghi chép và rút ra những nhận
xét thu được từ những sự kiện quan sát được cần đảm bảo tính khách quan và
thận trọng, cần xác định những nguyên nhân gây ra những sự kiện quan sát
được, dự đoán xu thế biến đổi của chúng. Chẳng hạn, nhà tâm lý học người
Đức V.Stern đã dùng nhật ký quan sát về trẻ em để xây dựng giả thuyết của

điều kiện khống chế một cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài. Người làm thí
nghiệm tự tạo ra các điều kiện làm nảy sinh hay phát triển một nội dung tâm lý cần
nghiên cứu. Vì thế có thể tiến hành nghiên cứu tương đối chủ động hơn so với quan
sát và thực nghiệm tự nhiên.

TRANG 12
Tuy nhiên, dù thực nghiệm được tiến hành trong phòng thí nghiệm hay trong
điều kiện tự nhiên cũng khó có thể khống chế hoàn toàn ảnh hưởng của các yếu tố
chủ quan của người bị thực nghiệm, vì thế phải tiến hành thực nghiệm một số lần và
phối kết hợp đồng bộ với nhiều phương pháp nghiên cứu khác.
2.3.3. Phương pháp trắc nghiệm tâm lý (test)
Trong Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, người ta thường dùng test
để đo nghiệm các mức độ, trình độ phát triển tâm lý của con người.
Test là một phép đo luờng tâm lý đã được chuẩn hóa trên một số lượng người
đủ là đại diện tiêu biểu.
Khoa học tâm lý đã sử dụng một số test về trí tuệ, năng lực, nhân cách như:
- Test đo khả năng tâm vận động (Test Denver).
- Các test về trí tuệ: Gille, Binet-Simon, Wechsler, Raven
- Test về nhân cách: Eysenck, Murray, Rorschach
Test tâm lý có ưu điểm là đo trực tiếp các biểu hiện tâm lý qua việc giải các
bài test, tiến hành nhanh, đảm bảo lượng hóa, chuẩn hóa việc đo đạc. Song test tâm
lý chỉ cho biết kết quả, ít bộc lộ quá trình suy nghĩ của nghiệm thể để đi đến kết quả.
Test đòi hỏi phải chuẩn bị công phu, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật của một bộ test.
Vì vậy, cần sử dụng test như là một trong những phương pháp chẩn đoán tâm lý con
người ở một thời điểm nhất định.
2.3.4. Phương pháp điều tra
Là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối tượng
nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó, có thể trả
lời viết (thường là như vậy), nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại.
Câu hỏi dùng dể điều tra có thể là câu hỏi đóng (có nhiều đáp ánh sẵn để đối

có ưu điểm và hạn chế của nó, vì vậy muốn nghiên cứu chức năng tâm lý nào đó một
cách khách quan và khoa học đòi hỏi nhà nghiên cứu phải:
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu phù hợp với vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng phối hợp, đồng bộ các phương pháp nghiên cứu để có được kết
quả toàn diện, khách quan.

3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TÂM LÝ HỌC LỨA TUỔI, TÂM LÝHỌC SƯ
PHẠM VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC
Khi nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, cần sử dụng các
thành tựu của nhiều khoa học khác và đến lượt mình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý

TRANG 14
học sư phạm lại cung cấp những tài liệu có ý nghĩa quan trọng cho nhiều khoa học
khác.
 Với Triết học: Các luận điểm của Triết học duy vật biện chứng và Duy vật
lịch sử đã cung cấp cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc nghiên cứu sự
phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách của con người trong hoạt động, giao tiếp
và trong các mối quan hệ xã hội. Ngược lại, các thành tựu trong việc nghiên
cứu tâm lý con người đóng góp không nhỏ cho triết học. Các nhà triết học đã
khẳng định: “Lịch sử phát triển trí tuệ của trẻ em là một trong những lĩnh vực
tri thức hợp thành lý luận nhận thức chung và phép biện chứng”.
 Với sinh lý học người: Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm thường sử
dụng các kết quả nghiên cứu về giải phẫu sinh lý người và hoạt động thần
kinh cấp cao với tư cách là cơ sở khoa học tự nhiên của tâm lý học.
 Với Tâm lý học đại cương: Tâm lý học đại cương cung cấp các khái niệm cơ
bản, các quy luật cơ bản của việc hình thành và phát triển tâm lý con người
cho việc nghiên cứu Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm. Ngược lại,
nhờ những thành tựu của hai chuyên ngành tâm lý học này mà những khái
niệm của Tâm lý học đại cương trở nên phong phú, sâu sắc hơn.
 Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm gắn bó chặt chẽ với nhau, quy

tế, sản xuất, kinh doanh

5. LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ THEO LỨA TUỔI
5.1. Vấn đề phát triển tâm lý
Trong tâm lý học, vấn đề phát triển tâm lý được xem xét theo nhiều phương
diện khác nhau. Có thể khái quát vấn đề phát triển tâm lý theo ba phương diện cơ
bản sau:
- Sự phát triển tâm lý trong giới động vật.
- Sự phát triển tâm lý trong lịch sử loài người và trong sự phát sinh cá thể
con người (từ trong bào thai cho đến khi tuổi già, trước khi chết).
- Sự phát triển tâm lý ở thế hệ trẻ (từ tuổi sơ sinh đến tuổi thanh niên).
Trong ba phương diện trên, phương diện thứ ba được nghiên cứu rộng rãi hơn.
Vậy thế nào là sự phát triển tâm lý ?
5.1.1. Phát triển là gì?

TRANG 16
Phát triển là quá trình biến đổi của sự vật, hiện tượng từ thấp đến cao, từ đơn
giản tới phức tạp. Phát triển là quá trình tích lũy dần về số lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất lượng, là quá trình nảy sinh cái mới trên cơ sở cái cũ, do sự đấu tranh giữa
các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng. Nói đến sự phát triển là
nói đến sự thay đổi chuyển hóa về chất, tạo nên một trình độ, một mức độ mới cao
hơn về chất so với cái cũ.
Khái niệm phát triển liên quan và có sự phân biệt với các khái niệm tăng trưởng,
chín muồi. Cụ thể:
- Tăng trưởng chủ yếu là sự gia tăng về mặt số lượng của sự vật, hiện tượng
như chiều cao, cân nặng
- Chín muồi được dùng để chỉ sự tăng trưởng đã đạt tới một độ nhất định.
Chẳng hạn, trước đây, khi nói tới sự chín muồi về mặt sinh học của nam và
nữ, cha ông ta thường nói nữ thập tam, nam thập lục (tuổi dậy thì ở nữ
thường là 13 trở đi, ở nam thường kà 16 trở đi). Tuy nhiên, ngày nay độ

hoạt động và vốn tri thức đã tiếp thu được vào các hoạt động cụ thể trong
cuộc sống.
- Sự phát triển những thuộc tính chung của nhân cách, trong đó có các thuộc
tính chung có tác dụng quyết định nhất, đó là:
o Những thuộc tính chung của xu hướng nhân cách.
o Những đặc điểm, cấu trúc tâm lý trong hoạt động.
o Sự phát triển các cơ chế của ý thức.
Các chỉ số cơ bản của sự phát triển tâm lý: Theo quan điểm truyền thống, sự
phát triển tâm lý con người được đánh giá qua ba chỉ số cơ bản thể hiện ba mặt
của đời sống tâm lý con người. Đó là:
- Sự phát triển nhận thức: Chuyển từ sự phản ánh bề mặt của sự vật, hiện
tượng riêng lẻ tới nhận thức bản chất của chúng, vạch ra mối liên hệ, quan
hệ có tính quy luật, tới những tri thức có hệ thống.
- Sự phát triển tình cảm: Tình cảm ngày càng mở rộng phạm vi, phân hóa
phức tạp, có nội dung xã hội cao hơn, có cơ sở lý tính đầy đủ hơn.
- Nắm vững hệ thống những hành động, hoạt động: Sự phát triển tâm lý con
người biểu hiện trong những biến đổi về chất lượng của hành động, hoạt
động, từ không chủ định lên chủ định, từ không có ý thức lên có ý thức.
Các dạng hoạt động ngày càng phong phú về nội dung, trình độ, cấu trúc
và phương hướng.

TRANG 18
Ngày nay, theo quan điểm hiện đại, người ta có cách nhìn mới mẻ về sự phát
triển tâm lý của trẻ, xem xét hành vi, hoạt động của trẻ xuất hiện như thế nào, có thể
dự đoán được chiều hướng biến đổi và sự hình thành phát triển các hành vi, hoạt
động có tính quy luật theo sự biến đổi của thời gian. Đó là sự biến đổi về chất ở con
người. Liên quan chặt chẽ với khái niệm biến đổi về chất là việc tổ chức lại hành vi,
hoạt động trong sự phối hợp chặt chẽ giữa sự tổ chức và sử dụng khả năng phát triển
của trẻ. Quá trình phát triển bao gồm những biến đổi về chất và sự tổ chức lại hành
vi theo độ tuổi, diễn ra theo trình tự, mang tính chất tích lũy và có sự định hướng. Cụ

đều có sẵn trong các cấu trúc sinh vật và sự phát triển chỉ là quá trình trưởng thành,
chín muồi của những thuộc tính đã có sẵn ngay từ đầu và được quyết định trước
bằng con đường di truyền này. Chẳng hạn, S.Freud coi động lực của sự phát triển
tâm lý là các bản năng; J. ĐiUây xem nhu cầu và các thuộc tính tâm lý được sắp đặt
sẵn trong gen.
Học thuyết này cũng cho rằng, các yếu tố di truyền quyết định giới hạn của
giáo dục. Môi trường chỉ là yếu tố điều chỉnh, yếu tố thể hiện, một nhân tố bất biến
nào đó ở trẻ. Nhà Tâm lý học người Mỹ E.Thorndike cho rằng: “Tự nhiên bạn cho
mỗi người một vốn nhất định, giáo dục cần phải làm bộc lộ vốn đó là vốn gì và phải
sử dụng nó bằng phương tiện tốt nhất” và “vốn tự nhiên” đó đặt ra giới hạn cho sự
phát triển, cho nên “một bộ phận học sinh tỏ ra không đạt được kết quả nào đó dù có
giảng dạy tốt, số khác lại toẻ ra có thành tích dù giảng dạy tồi”
1
.
Như vậy, với quan niệm như trên, vai trò của yếu tố giáo dục đã bị hạ thấp.
Giáo dục chỉ là nhân tố bên ngoài có khả năng tăng nhanh hoặc kìm hãm quá trình
bộc lộ những phẩm chất tự nhiên, bị chế ước bởi tính di truyền. Vì vậy, thuyết tiền
định đã có kết luận sư phạm sai lầm khi xem mọi sự can thiệp vào quá trình tự nhiên
của trẻ đều là sự tuỳ tiện không thể tha thứ được.
Khoa học hiện đại đã chứng minh rằng những quan điểm của thuyết tiền định
về nguồn gốc của sự phát triển tâm lý còn có nhiều hạn chế. Kết quả nghiên cứu
thực nghiệm trên trẻ sinh đôi từ một trứng do các nhà tâm lý học Liên Xô (trước
đây) như V.V.Cônbannôpxki, A.R.Luria, A.N.Mirênôva và nhà tâm lý học người
Pháp R.Razjô đã chỉ ra rằng với cơ sở bẩm sinh giống nhau, tuỳ thuộc vào phương
pháp dạy học, các trẻ sinh đôi từ một trứng thể hiện những khả năng khác nhau về
năng lực.

1
Theo V.A. Cruchetxki, Những cơ sở tâm lý học sư phạm. Nxb giáo dục Hà Nội. T1. Tr31. 1980


cả hai yếu tố này hội tụ lại cùng quyết định một cách máy móc sự phát triển tâm lý,

TRANG 21
trong đó yếu tố di truyền giữ vai trò quyết định, môi trường chỉ là điều kiện để biến
những đặc điểm tâm lý đã được định sẵn trong gen di truyền thành hiện thực.
Thuyết hội tụ hai yếu tố cũng sai lầm không kém thuyết tiền định và thuyết
môi trường. Tính chất máy móc và siêu hình của các quan điểm trên đều đã bị phê
phán.
Tóm lại, mặc dù quan niệm của những người đại diện cho các thuyết trên có
vẻ khác nhau nhưng thực chất quan điểm của các tác giả đó đều có những sai lầm
giống nhau. Cụ thể:
- Các quan điểm trên đều thừa nhận đặc điểm tâm lý của con người hoặc là bất
biến, hoặc là tiền định, hoặc là do tiềm năng sinh vật di truyền quyết định,
hoặc là do ảnh hưởng của môi trường bất biến. Với quan niệm như vậy thì
trong trường hợp nào con em của tầng lớp có đặc quyền đặc lợi đều có trình
độ phá triển tâm lý hơn hẳn con em giai cấp bị bóc lột. Do vậy, sự bất bình
đẳng trong xã hội là tất nhiên và hợp lý.
- Các tác giả này đánh giá không đúng vai trò của yếu tố giáo dục. Họ xem xét
sự phát triển của trẻ em một cách tác rời và không phụ thuộc vào những điều
kiện cụ thể mà trong đó quá trình ấy diễn ra. Do vậy, họ đều đánh giá thấp vai
trò của yếu tố giáo dục, xem nhẹ nhân tố xã hội lịch sử.
- Cả ba trường phái trên đều phủ nhận tính tích cực hoạt động của từng cá nhân,
coi thường những mâu thuẫn biện chứng được hình thành trong quá trình phát
triển của cá nhân. Họ coi trẻ em như là một thực thể thụ động, tự nhiên, cam
chịu ảnh hưởng có tính chất quyết định của nhân tố di truyền và môi trường.
Họ không thấy được, con người là một thực thể xã hội tích cực, chủ động
trước tự nhiên, có thể cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân để phát triển nhân
cách. Vì phủ nhận tính tích cực hoạt động của con người nên họ không thể
giải thích tại sao trong những điệu kiện của cùng một môi trường xã hội lại
hình thành nên những nhân cách khác nhau về nhiều chỉ số, hoặc vì sao những

phát và tự giác. Con đường tự giác được thể hiện qua giáo dục, đó là sự tác động có
mục đích, có kế hoạch, có phương pháp nhằm hình thành ở con người những phẩm
chất nhân cách, đáp ứng các yêu cầu của xã hội. Vì vậy, giáo dục là nhân tố chủ đạo,
quyết định sự phát triển tâm lý của con người.
5.2.1.3. Tính tích cực hoạt động của con người
Tính tích cực hoạt động của con người là nhân tố quyết định trực tiếp sự phát
triển tâm lý. Quá trình tác động qua lại giữa con người và môi trường được tiến hành

TRANG 23
thông qua chính hoạt động của con người trong môi trường đó. Hoạt động của con
người có tính mục đích, tính xã hội được xem là điều kiện quyết định sự phát triển
tâm lý.
5.2.2. Quy luật chung của sự phát triển tâm lý
5.2.2.1. Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý
Trong những điều kiện, thậm chí ngay trong những điều kiện thuận lợi nhất
của việc giáo dục thì những biểu hiện tâm lý, những chức năng tâm lý khác nhau …
cũng không thể phát triển ở mức độ như nhau. Có những thời kỳ tối ưu đối với sự
phát triển một hình thức hoạt động tâm lý nào đó. Chẳng hạn, giai đoạn thuận lợi
cho sự phát triển ngôn ngữ là thời kỳ từ 1 đến 5 tuổi, cho sự hình thành nhiều kỹ xảo
vận động là khoảng từ 6 đến 11 tuổi, cho sự hình thành tư duy toán học là giai đoạn
từ 15 - 20 tuổi.
Ngay trong sự phát triển cơ thể trẻ cũng thể hiện tính không đồng đều. Ví dụ,
chiều cao và trọng lượng của trẻ tăng nhanh trong 2 năm đầu sau khi sinh và trong
thời kỳ phát dục.
Tính không đồng đều của sự phát triển tâm lý còn thể hiện ở chỗ có sự khác
biệt về sự phát triển tâm lý giữa các cá nhân ngay trong cùng một độ tuổi. Các chức
năng tâm lý và ngay cả các nét tâm lý cá nhân của trẻ em khác nhau cũng không đạt
một mức độ như nhau (dù chúng ở cùng một độ tuổi).
5.2.2.2. Tính toàn vẹn của tâm lý
Cùng với sự phát triển, tâm lý con người có tính toàn vẹn, thống nhất và bền

không sống trong xã hội loài người, không được hưởng sự giáo dục và dạy dỗ của
thế hệ trước thì trẻ cũng không thể trở thành nhân cách. Do vậy, nắm được các quy
luật nói trên, người lớn và các nhà giáo dục cần tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát
triển tâm lý của trẻ.
5.2.3. Động lực của sự phát triển tâm lý
Sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, giữa các mâu thuẫn bên
trong. Vì vậy, động lực của sự phát triển là sự nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết các
mâu thuẫn đó.
Trong sự phát triển tâm lý trẻ em thì đó là các mâu thuẫn biện chứng giữa cái
mới và cái cũ; giữa cái đang được nảy sinh, đang được khắc phục trong quá trình
dạy học và giáo dục; mâu thuẫn giữa nhu cầu mới nảy sinh do hoạt động và khả
năng thoả mãn chúng; mâu thuẫn giữa khả năng của trẻ đang được phát triển trong
những hình thức của các mối quan hệ đã được hình thành và các hình thức hoạt động

TRANG 25
cũ; mẫu thuẫn giữa những yêu cầu ngày càng tăng của xã hội, của tập thể, của người
lớn với trình độ phát triển tâm lý hiện tại của trẻ ….
Việc nảy sinh các mâu thuẫn và việc trẻ em tích cực giải quyết các mâu thuẫn
đó dưới sự hướng dẫn của người lớn làm cho tâm lý của trẻ được hình thành và phát
triển. Tất nhiên,sự phát triển tâm lý của trẻ không phẳng lặng mà đầy biến động
trong đó có những cuộc khủng hoảng và đột biến tạo ra sự nhảy vọt về chất trong
quá trình phát triển tâm lý của trẻ (khủng hoảng ở lứa tuổi lên ba, ở tuổi thiếu niên
14-15 tuổi …).
5.3. Dạy học và sự phát triển tâm lý
Quan niệm cho rằng dạy học có tác dụng phát triển học sinh đã được thể hiện
ở nhiều nhà giáo dục kiệt xuất như J.J.Rutxô, I.G.Pextalôzi, A. Đixtecvec, K. Đ.
Usinxki … Chẳng hạn, K.D. Usinxki cho rằng có hai cách tác động đến sự phát triển
trí tuệ học sinh, đó là:
- Qua quá trình thu nhận tri thức mà trí tuệ được rèn luyện.
- Hướng nhiều hơn vào chính bản thân sự phát triển, học sinh phải lĩnh hội một


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status