TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG - Pdf 27

MỞ ĐẦU
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) ngoài hợp đồng được quy định khá cụ
thể trong BLDS 2005. Tuy nhiên, trách nhiệm này không phải trong mọi trường hợp đều
được đặt ra cho người trực tiếp gây thiệt hại. Việc tìm hiểu những quy định của pháp luật
về vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thuộc về
ai trong từng trường hợp cụ thể, đảm bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, bảo
vệ lợi ích cho người bị thiệt hại.
NỘI DUNG
A. TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của
pháp luật thế giới cũng như pháp luật Việt Nam. Kế thừa những quy định về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, pháp luật dân sự ngày
nay đã có những quy định khá chi tiết về vấn đề này, cụ thể tại Điều 307 về trách nhiệm
bổi thường thiệt hại nói chung và chương XXI về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm BTTH mà chỉ
nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm,

Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lí, ta có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một
loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lí của
mình, gây tổn hại cho người khác thì phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra
1
.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm BTTH. Khái niệm về
trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng cũng chỉ được xây dựng dưới dạng quan điểm mà
chưa được ghi nhận chính thức trong bất cứ một văn bản pháp luật nào. Theo đó, trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách nhiệm dân sự theo đó, người
có hành vi trái pháp luật dân sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
1
ThS. Nguyễn Minh Oanh – Khoa pháp luật dân sự, Đại học Luật Hà Nội, Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại và phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại

- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người
gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi
mức bồi thường.
B. NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CÁ NHÂN
DO GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
I - Cá thể hóa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Người gây thiệt hại có thể là bất cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà
nước,… Nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có “khả năng” bồi thường và
chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể
không phải do chính họ thực hiện. BLDS quy định về năng lực chịu trách nhiệm BTTH
của cá nhân (Điều 606) mà không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Bởi vậy, các chủ thể khác được mặc nhiên coi là có năng lực chịu trách nhiệm BTTH.
Việc xác định cá nhân nào có năng lực chịu trách nhiệm BTTH và phải BTTH trong
trường hợp nào có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thiệt hại.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật
quy định. Khi có thiệt hại xảy ra, thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật, có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi thì trong đa số trường
hợp, người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau như người gây thiệt hại bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự, không có tài sản hoặc có tài sản nhưng không đủ để thực
hiện trách nhiệm bồi thường mà người gây thiệt hại không thể trực tiếp bồi thường cho
người bị thiệt hại. Vậy, câu hỏi đặt ra là ai sẽ là người có trách nhiệm bồi thường trong
những trường hợp trên?
Pháp luật cũng đã dự liệu cách giải quyết cho những tình huống này. Trong từng
hoàn cảnh cụ thể, luật dân sự xác định trách nhiệm BTTH thuộc về cha, mẹ của người
3
gây thiệt hại là người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, người giám hộ của người gây

thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ
chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường.
- Người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại trong thời gian
trường học, bệnh việc, tổ chức khác trực tiếp quản lí thì các tổ chức này phải BTTH.
Nếu tổ chức này chứng minh được mình không có lỗi thì cha mẹ người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự phải BTTH.
II - Năng lực bồi thường thiệt hại của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 1 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây
thiệt hại thì phải tự bồi thường”, tuy nhiên, qua việc xem xét mối liên hệ giữa quy định
này với quy định tại Khoản 3 Điều 606 thì thấy rằng cá nhân có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ thì phải tự bồi thường nếu gây thiệt hại.
Điều 19 về năng lực hành vi dân sự của người thành niên quy định: “Người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23
của Bộ luật này”. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người thành
niên nếu không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ
được hành vi của mình mà bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự; không
nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình mà
bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự thì được coi là có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ. Ở mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển ý thức
và tự ý thức. Nhưng phải qua quá trình hoạt động và giáo dục trong điều kiện xã hội, khả
năng đó mới có thể trở thành hiện thực. Những người đáp ứng đủ các điều kiện trên, xét
về cơ bản tâm sinh lí của họ đều đã phát triền một cách hoàn thiện. Họ hoàn toàn có đầy
đủ khả năng để nhận thức về sự vật, sự việc, và tự quyết định về hành động của mình,
hoàn toàn có khả năng nhận biết được thế giới khách quan. Họ có nghĩa vụ phải biết
trước những hành vi của mình sẽ đem lại những hậu quả như thế nào, hành vi đó có xâm
5
phạm đến lợi ích của các chủ thể khác hay không từ đó lựa chọn cách xử sự phù hợp,
đảm bảo cân bằng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích của các chủ thể khác và xã hội.
Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy

gây ra
Liên quan đến vấn đề năng lực BTTH của người đã thành niên, có đầy đủ năng
lực hành vi dân sự, theo ý kiến chủ quan, em xin được đề cập đến vấn đề BTTH ngoài
hợp đồng do tài sản của vợ chồng gây ra. Trên thực tế, có không ít những trường hợp tài
sản gây thiệt hại là tài sản thuộc sở hữu chung hoặc riêng của vợ chồng trong thời kì hôn
nhân. Việc xác định trách nhiệm BTTH thuộc về ai trong những trường hợp này vẫn còn
được ít được nhắc tới.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về tài sản, tài sản của vợ chồng bao
gồm vật, tiền và các quyền tài sản. Tài sản của vợ chồng có thể là động sản hay bất động
sản… Tất cả các tài sản này dựa vào các căn cứ khác nhau mà được phân thành tài sản
chung và tài sản riêng; việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ,
chồng là cơ sở để giải quyết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
khi có thiệt hại xảy ra.
Việc xác định trách nhiệm BTTH trong trường hợp thiệt hại do tài sản của vợ
chồng gây ra, bên cạnh việc xem xét các yếu tố để xác định trách nhiệm BTTH còn phải
căn cứ vào các loại tài sản cụ thể để xác định trách nhiệm BTTH. Chính vì vậy, trách
nhiệm BTTH do tài sản của vợ chồng gây ra cần phải được xem xét trên những khía
cạnh sau:
Thứ nhất, cần phải xác định có căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng hay không khi tài sản của vợ chồng gây thiệt hại. Điều này được xác định dựa trên
các căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, cụ thể: có thiệt hại xảy ra, có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
và thiệt hại xảy ra, có lỗi (không phải điều kiện bắt buộc).
Thứ hai, cần xác định xem tài sản gây thiệt hại là tài sản chung hay tài sản riêng
của vợ, chồng. Đây là vấn đề quan trọng để chúng ta xác định trách nhiệm BTTH là
trách nhiệm của một bên vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng. Chính vì thế, việc xác định
7
một cách chính xác trách nhiệm của vợ chồng đối với việc BTTH trong trường hợp này
có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về tài sản của vợ
chồng, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status