Công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - Pdf 35

LỜI NÓI ĐẦU
Trong suốt những năm qua, và đặc biệt trong thời kỳ đổi mới đất nước,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự đang
đứng trước những thời cơ, thuận lợi rất cơ bản, song cũng phải đối mặt với
những khó khăn, thách thức không nhỏ. Tình hình trên đã và đang xuất hiện
nhiều vấn đề mới cần phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ về lý luận và giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra, nhất là công tác đấu tranh phòng chống các
loại tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm kinh tế - chức vụ, tội phạm có tổ
chức, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm về môi trường,... Đây là nhiệm
vụ hết sức khó khăn, đòi hỏi trí tuệ của toàn lực lượng Công an nhân dân. Vì
vậy, công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán
bộ, chiến sĩ là nhiệm vụ mang tính chiến lược lâu dài, đóng vai trò nòng cốt và
có tính quyết định.
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác quản
lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; lãnh đạo Bộ Công an đã đề ra các chương trình,
kế hoạch và thể chế hoá thành các quy định để chỉ đạo thực hiện tốt công tác
quản lý và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Công
an nhân dân, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu giữ vững
an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Trên cơ sở đó, đã chỉ đạo tổ
chức triển khai thực hiện tốt các yêu cầu đặt ra, đặc biệt là tập trung chỉ đạo thực
hiện các quy định, hướng dẫn của Bộ Công an về tăng cường công tác quản lý,
đào tạo, bồi dưỡng, nhất là đào tạo, bồi dưỡng về trình độ khoa học - kỹ thuật,
ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, chiến sĩ.
Thực tế, trong những năm qua, công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ trong Công an tỉnh đã đạt được những thành quả nhất định và được Đảng uỷ,
Giám đốc Công an tỉnh quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
quả đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần phải được nghiên cứu có biện
pháp khắc phục để thực hiện công tác quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
trong Công an tỉnh ngày càng có hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm đáp ứng yêu
cầu công tác ngày càng cao trong thời gian đến.
Với ý nghĩa nêu trên, qua học tập chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Xây dựng đội ngũ cán bộ là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Suốt cuộc đời, Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, huấn luyện đội
ngũ cán bộ cho Đảng đủ “đức” và “tài” để phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Theo Người, “cán bộ là gốc của công việc”,
do đó Người yêu cầu “phải biết rõ cán bộ” và “hiểu biết cán bộ” để có kế
hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng phù hợp. Đánh giá đúng cán bộ tức là xác
định chính xác ai tốt ai xấu, ai mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào, khả năng hoàn thành
công việc đến đâu, quan hệ với quần chúng ra sao để từ đó “tìm thấy những
nhân tài mới,... những người hủ hoá cũng lòi ra”.
Cán bộ là con người, vì vậy người cán bộ luôn chịu sự tác động của hoàn
cảnh lịch sử, xã hội nên khi đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong
mối quan hệ toàn diện, nhiều chiều, phát triển và không định kiến “một người
cán bộ khi trước có sai lầm, không phải sẽ sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay
chưa bị sai lầm nhưng chắc gì sau này không bị sai lầm? Quá khứ, hiện tại và
tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau,... lúc cách mạng lên
cao thì hăng hái, lúc cách mạng gặp khó khăn thì đâm ra hoang mang” hoặc
“nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải
xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”. Theo Người, phải lấy tiêu chuẩn để
đánh giá “cán bộ nào, phong trào ấy”. Một người cán bộ tốt phải là người có đủ
“đức” và “tài”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đức là đạo đức cách mạng, là cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; tài là người có khả năng hành động, làm việc mang
lại hiệu quả cao. Đức và tài phải thống nhất với nhau trong đó “Đức là gốc”.
Một điều quan trọng nữa là người đánh giá cán bộ. Để đánh giá đúng, đòi
hỏi người đánh giá phải công tâm, vô tư, khách quan. Do đó, bản thân người
đánh giá cũng phải “tự sửa mình'' để "nếu không biết sự phải trái của mình thì
không thể nhận rõ cán bộ tốt hay xấu”. Đặc biệt đánh giá cán bộ phải dựa vào
dân, lấy ý kiến của dân, đem ra tập thể bàn bạc và đi đến thống nhất. Đánh giá
đúng cán bộ để Đảng có kế hoạch huấn luyện cán bộ vì “cán bộ là tiền vốn của
Đảng”, “công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Đạo
đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện

ta di sản quý báu đó là khoa học và nghệ thuật về đánh giá và sử dụng cán bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ có nội hàm hết sức phong
phú nên cần được nghiên cứu ở nhiều phương diện. Song, cần khẳng định: Đánh
giá cán bộ, sử dụng cán bộ là cả một vấn đề khoa học và nghệ thuật, và phải
luôn ghi nhớ lời Bác dạy: “Công việc thành hay bại đều từ cán bộ mà ra”.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ nói chung, về đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng là kết tinh truyền thống, tinh hoa trí tuệ
của dân tộc, là đỉnh cao của “nghệ thuật” hay “phương sách” đào luyện con
người và dùng người. Đó là tư tưởng vĩ đại đầy tính nhân văn và khoa học.
Hồ Chí Minh là người thầy, là lãnh tụ tối cao của Đảng, của cách mạng Việt
Nam, đồng thời là tấm gương sáng nhất về người cán bộ - “công bộc” của
nhân dân, “tận trung với nước, tận hiếu với dân”, suốt đời phấn đấu hi sinh
cho độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Do ảnh hưởng của Người,
hoặc do Người trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, cách mạng Việt Nam đã có
những đội ngũ cán bộ kế tiếp nhau, nhiều học trò của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc, tổ chức, lãnh đạo toàn
Trang 4


Đảng, toàn dân, toàn quân hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ cách mạng
trong từng thời kỳ. Hồ Chí Minh làm công tác cán bộ nói chung, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ nói riêng theo phong cách rất độc đáo - “phong cách Hồ
Chí Minh”: nói, viết thì giản dị, ngắn gọn nhưng đầy đủ, sâu sắc, lời nói đi đôi
với việc làm, và làm thì kiên trì, tỉ mỉ, cụ thể, tận tình, chu đáo, đến nơi đến
chốn. Điều quan trọng hơn, là tự mình nêu gương sáng nhất về phẩm chất đạo
đức của một “Con Người” và một cán bộ “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là nhận thức về vị trí, vai trò
của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Kế thừa tinh hoa tư tưởng của
dân tộc, coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu


Trang 5


nội dung, phương pháp học tập, những yêu cầu cụ thể đối với người học, người
dạy,…
Người nhấn mạnh: học để hành, nghĩa là để làm việc chứ không phải là để
có bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ. Việc giảng dạy, học tập, đào
tạo, huấn luyện phải gắn liền với nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm
thực tế, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”, “lý luận cùng thực hành
phải luôn luôn đi liền với nhau”.
Người cho rằng: cán bộ đảng viên phải học tập lý luận Mác - Lênin, học
tập đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời phải học văn hóa, kỹ thuật nghiệp
vụ, “làm việc gì học việc đấy”, tức là cán bộ làm ở lĩnh vực gì, phụ trách ở
ngành nghề gì đều phải học cho thành thạo công việc ở lĩnh vực đó. Để làm
được điều này, các cơ quan lãnh đạo, những người phụ trách phải xây dựng kế
hoạch huấn luyện, bồi dưỡng cụ thể từng môn, từng đối tượng. Nội dung đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thiết thực, cơ bản và toàn diện. Thời gian đào tạo dài
hay ngắn, số lượng cán bộ nhiều hay ít, phải xuất phát từ tình hình thực tế, từ
yêu cầu sử dụng cán bộ mà định ra thời gian, nội dung chương trình, sắp xếp cán
bộ giảng dạy cho phù hợp. Phải lựa chọn rất cẩn thận những người phụ trách
việc giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Những người lãnh đạo phải
tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Đảng. Người còn chú ý
đến việc “đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương
xứng với yêu cầu. Không nên bủn xỉn về các khoản chi cho công tác này”.
Trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh cần
phải tạo ra môi trường “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “có
gan phụ trách, có gan làm việc”; “khi đã giao việc cho cán bộ phải để cho cán
bộ có quyền tùy cơ ứng biến mới có thể phát huy tài năng của họ, không nên
sớm ra lệnh này, trưa đổi lệnh khác”. “Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không

công tác cán bộ; chủ thể có quyền hạn cao nhất về mặt tổ chức, trong quản lý
cán bộ là Đảng, mà thường xuyên và trực tiếp là Ban chấp hành Chi bộ, Đảng bộ
các cấp. Trong quy định về phân cấp quản lý cán bộ đã xác định “Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ, đồng thời phát huy trách
nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị”; những cá nhân có
trách nhiệm trong công tác quản lý cán bộ bao gồm người đứng đầu các tổ chức
đảng và thành viên trong các cơ quan lãnh đạo của tổ chức đảng, người đứng
đầu các cơ quan đơn vị, địa phương trực tiếp sử dụng đội ngũ cán bộ thuộc
quyền. Khách thể quản lý - đối tượng của công tác quản lý cán bộ là toàn thể đội
ngũ và từng người cán bộ của Đảng, Nhà nước hoạt động trong hệ thống chính
trị, trong các doanh nghiệp Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; mỗi cá nhân
người cán bộ vừa là chủ thể, vừa là khách thể của công tác quản lý cán bộ.
Tuy nhiên, giữa tổ chức và cá nhân trong mối quan hệ cùng là chủ thể
quản lý ở một cấp nào đó, sự khác biệt cơ bản giữa tổ chức và cá nhân là ở chỗ:
Tổ chức là người có quyền quyết định những nội dung quản lý, cá nhân đóng vai
trò đề xuất, kiến nghị.
Nội dung của hoạt động quản lý rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều
khâu công tác liên quan chặt chẽ với nhau, khâu công tác trước làm tiền đề cho
khâu công tác sau; những nội dung đó phải được thực hiện một cách chủ động,
thường xuyên nhằm những mục tiêu yêu cầu xác định. Hoạt động quản lý phải
đạt mục đích bồi dưỡng, rèn luyện, phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ và bản
thân từng cán bộ, làm cho đội ngũ cán bộ không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng.
Quy định về phân cấp công tác quản lý cán bộ: các cấp uỷ Đảng trực tiếp,
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý cán bộ theo sự phân công, phân
cấp của Trung ương. Trung ương quy định rõ yêu cầu, nguyên tắc, nội dung
phân công, phân cấp việc quản lý cán bộ như sau: “Quản lý cán bộ phải kết hợp
chặt chẽ giữa ngành và lãnh thổ. Khi bổ nhiệm, đề bạt, điều động, khen thưởng,
Trang 7


bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, quyết định của cấp uỷ,
tổ chức đảng; cấp uỷ cấp dưới phải chấp hành quyết định của cấp uỷ cấp trên
về cán bộ và công tác cán bộ).
Hai nguyên tắc trên đảm bảo cho Đảng ta lãnh đạo và quản lý chặt chẽ đội
ngũ cán bộ công chức trong hệ thống chính trị, hai nguyên tắc trên chỉ rõ rằng
Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ từ việc định ra đường lối chủ
trương, chính sách, tiêu chuẩn, đến việc trực tiếp ra các quyết định về đánh giá,
bố trí sử dụng, lựa chọn, luân chuyển, thực hiện các chính sách cán bộ.
Nội dung quản lý cán bộ bao gồm các việc: tuyển chọn, bố trí, phân công
công tác đối với cán bộ; thực hiện quản lý, sử dụng và phân công, phân cấp quản
lý cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nhận xét, đánh giá cán bộ; bổ
Trang 8


nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện chế độ, chính
sách cán bộ; kiểm tra công tác cán bộ và giải quyết khiếu nại, tố cáo về cán bộ.
2. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ có tầm quan trọng
chiến lược, vì do đòi hỏi của công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu và
toàn diện, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xuất phát từ thực
trạng đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo và trưởng thành trong cơ chế tập
trung, bao cấp, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản lý và phong
cách làm việc còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới trong cơ
chế thị trường và hội nhập quốc tế; là một khâu then chốt trong công tác cán bộ
và quy hoạch cán bộ, là bộ phận trọng yếu của chiến lược cán bộ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng,...”.
Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII), Quyết định số 874-QĐ/TTg ngày
20/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức Nhà nước, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, X, XI, XII của Đảng đã
nêu ra những định hướng cơ bản như sau:

trị cơ bản theo tiêu chuẩn của từng ngạch công chức nhằm bảo đảm yêu cầu
công việc, thực thi công vụ và tạo nguồn nhân lực thường xuyên cho các cơ
quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể.
Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần đào tạo, bồi dưỡng toàn diện
cả về lý luận chính trị, kiến thức quản lý, phẩm chất đạo đức; cập nhật đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; trình độ chuyên môn và năng
lực thực tiễn theo tiêu chuẩn của các chức danh cán bộ.
Đối với cán bộ chủ chốt của Đảng, chính quyền cơ sở cần từng bước nâng
cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng về lý luận chính trị, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, những kiến thức cơ bản về quản lý, pháp
luật,... theo các chương trình đã được chuẩn hoá.
- Yêu cầu đạt được là nhằm làm cho cán bộ, công chức có đủ các tiêu
chuẩn quy định đối với từng ngạch công chức, từng chức danh cán bộ; đào tạo,
bồi dưỡng đúng mục tiêu, khắc phục hẫng hụt về trình độ chuyên môn, hạn chế
về năng lực quản lý, trang bị mới những kỹ năng, kiến thức cơ bản về chuyên
môn, nghiệp vụ, quản lý; thông qua thi tuyển để lựa chọn, xây dựng đội ngũ
chuyên gia đầu ngành về các lĩnh vực, có khả năng xây dựng các chương trình,
chính sách kinh tế - xã hội có tầm cỡ chiến lược trong phạm vi toàn quốc; mỗi
cán bộ, công chức phải có kế hoạch học tập, tinh thần và kết quả học tập là một
tiêu chuẩn để xem xét đề bạt, bổ nhiệm cán bộ.
- Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ:
+ Trước hết là trang bị, củng cố kiến thức và năng lực cơ bản cho đội ngũ
cán bộ, công chức. Đây là định hướng cơ bản, theo đó tất cả cán bộ, công chức
dù trước đây được đào tạo trong lĩnh vực chuyên môn nào, dù cương vị công tác
nào cũng phải được đào tạo lại để đạt các tiêu chuẩn quy định đối với từng chức
danh cán bộ và từng ngạch công chức.
+ Hai là, nâng cao khả năng thích ứng của cán bộ, công chức trong sự
phát triển liên tục của tình hình, nhiệm vụ mới. Đất nước ta đang trên đà phát
triển mạnh mẽ về mọi mặt, cuộc cải cách trên các lĩnh vực kinh tế, hành chính,
tư pháp, quốc phòng, an ninh... đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức không chỉ

hết phải nhằm vào các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn mà nước ta đang
có nhu cầu cấp bách, tập trung vào các ngành nghề trong nước chưa có khả
năng đào tạo hoặc chất lượng đào tạo còn hạn chế, ưu tiên đào tạo các cán bộ
thực hành, các chuyên gia về công nghệ, các nhà quản lý, kinh doanh, công
nhân kỹ thuật lành nghề”, “mở rộng hình thức “du học tại chỗ”, mời thầy giỏi
của nước ngoài vào nước ta giảng dạy, mở một số cơ sở đào tạo của nước ngoài
ở nước ta” (Chỉ thị số 53-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khoá VII).
- Công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải thực hiện
theo phương hướng chính trị, mục tiêu, yêu cầu của Đảng và được thể chế hoá
về mặt Nhà nước. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải được
tiến hành dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn theo một kế hoạch thống nhất, gắn với quy
hoạch và yêu cầu bố trí, sử dụng, đồng thời thực hiện phân cấp quản lý cán bộ.
Hệ thống đào tạo, bồi dưỡng phải được sắp xếp, kiện toàn đảm bảo tính thống
nhất. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, tiêu chuẩn hoá hệ thống văn bằng,
chứng chỉ đối với từng loại hình đào tạo. Tăng cường kiểm tra, đánh giá chất
lượng đào tạo, tránh mở trường, mở lớp tràn lan, không đúng đối tượng, không
sát yêu cầu công việc. Nắm lại trình độ, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức hằng năm.
Trang 11


III. Chủ trương, chính sách về công tác quản lý và đào tạo cán bộ
chiến sĩ giai đoạn 2010- 2015
1. Dự báo tình hình có liên quan đến công tác Công an hiện nay
Thực tiễn hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh tiếp tục có bước phát triển mới. Tuy nhiên, do tác động ảnh hưởng tình hình
kinh tế thế giới, giá cả thị trường có nhiều biến động, lạm phát ở mức cao, sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống của đại bộ phận nhân dân, có nguy
cơ mất ổn định kinh tế - xã hội và tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định an ninh trật

hiện các nội dung công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

Trang 12


Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII của Đảng về chiến lược
cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Nghị quyết của Tỉnh uỷ
Quảng Nam về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tỉnh Quảng nam, giai đoạn
2010 - 2015 và những năm tiếp theo”; Đề án của Giám đốc Công an tỉnh về
“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ giai đoạn 2010 - 2015 và những
năm tiếp theo” và Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 30/6/2011 của Tỉnh uỷ về
công tác cán bộ giai đoạn 2011- 2015 và định hướng đến năm 2020. đề ra một
số chỉ tiêu cụ thể:
2.1. Mục tiêu
- Về chất lượng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ: Tiếp tục thực hiện đề án của
Công an tỉnh về nâng cao chất lượng cán bộ đến năm 2015 tăng số cán bộ có
trình độ sau đại học lên 50 đồng chí (1%). Nâng tỷ lệ cán bộ có trình độ Đại học
lên 50% (trong đó Đại học nghiệp vụ chiếm 38%). Nâng tỷ lệ cán bộ có trình độ
cử nhân, Cao cấp lý luận chính trị lên 10%; tỷ lệ cán bộ có trình độ Trung học
nghiệp vụ lên 60%; tỷ lệ Trung cấp chính trị lên 35%. Giảm sơ học xuống dưới
10%. Những năm sau 2015, mỗi năm cử trên 15 đồng chí đi đào tạo sau Đại học,
nâng tỷ lệ cán bộ có trình độ Đại học lên 70%; Cử nhân, Cao cấp lý luận chính
trị trên 15%; Trung cấp chính trị trên 40%.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ huy của Công an các cấp ngang tầm với
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; đảm bảo tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo,
chỉ huy. Phấn đấu đến năm 2018, có trên 85% cán bộ lãnh đạo, chỉ huy Công an
các cấp có trình độ Đại học Công an và Trung cấp lý luận chính trị. Từ năm
2018 về sau không bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, chỉ huy đối với các đồng chí
chưa tốt nghiệp Đại học hoặc chưa đào tạo trình độ Trung cấp lý luận chính trị hành chính hoặc tương đương, có từ 60-70% Trưởng, Phó Công an xã, thị trấn
bán chuyên trách được đào tạo trình độ Trung học Công an (số còn lại được đào

trung dân chủ, củng cố và phát huy vai trò của Phòng Tổ chức cán bộ và đội ngũ
làm công tác cán bộ Công an các đơn vị, địa phương (có từ 1 - 2 cán bộ chuyên
trách).

Trang 14


Phần thứ hai
THỰC TẾ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
TRONG TỪ NĂM 2009 ĐẾN 2011 VÀ NHỮNG ƯU, KHUYẾT ĐIỂM
I. Khái quát về đặc điểm, tình hình
Tháng 01/1997,
được chia tách từ
- Đà Nẵng (cũ), ngay từ ban đầu
còn nhiều khó khăn, vướng mắc: thiếu rất nhiều cán bộ, tổ chức bộ máy chưa ổn
định, trình độ cán bộ còn thấp (Đại học có 15,72%, Trung học 34,66% và sơ học
có 26,60%), bất cập, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy còn thiếu và yếu. Xuất
phát từ yêu cầu, nhiệm vụ công tác Công an và đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ
công tác Công an trong giai đoạn mới đòi hỏi chiến sĩ CAND phải có trình độ
nói chung và trình độ kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, khoa học kỹ thuật, ngoại
ngữ,... đạt chuẩn để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự, phục vụ
công cuộc phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) về chiến lược cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ủy- Giám
đốc Công an tỉnh đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều biện pháp để kiện toàn tổ
chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gắn chặt với công tác tuyển
sinh vào các Trường Công an nhân dân, tuyển chọn cán bộ tốt nghiệp các trường
ngoài ngành vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân và tăng cường công
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để nâng cao chất lượng cán bộ cả về số lượng, lẫn

- Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an;
- Nghị quyết Trung ương 7, Khoá VII về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ; Nghị quyết Trung ương 3, Khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
- Kế hoạch số 42/KH-ĐUCA(X11), ngày 29/10/2009 của Đảng uỷ Công
an Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ của lực lượng
Công an nhân dân đến năm 2020;
- Quyết định số 70/2008/QĐ-BCA(X13), ngày 21/01/2008 của Bộ trưởng
Bộ Công an về việc ban hành quy định phân công trách nhiệm giữa cha các cấp
về một số vấn đề trong công tác tổ chức cán bộ của lực lượng Công an nhân dân;
- Quyết định số 286/2000/QĐ-BCA(X13) ngày 03/4/2000 của Bộ trưởng
Bộ Công an ban hành quy chế quản lý sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân
viên Công an nhân dân;
- Quyết định số 2222/2008/QĐ-BCA, ngày 22/12/2008 của Bộ trưởng Bộ
Công an ban hành quy định về chế độ kiểm tra công tác tổ chức cán bộ và chức
trách, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ công tác của cán bộ làm công tác quản lý cán
bộ trong Công an nhân dân;
- Đề án của Giám đốc Công an tỉnh về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, chiến sĩ giai đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”;
- Kế hoạch số 03/BCA-X11(X14) của Bộ Công an về thực hiện Đề án xây
dựng xã hội học tập đến năm 2015 của Chính phủ trong Công an nhân dân;
- Chương trình hành động và kế hoạch thực hiện Nghị quyết 09 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Khoá X; Nghị quyết số 07 của Đảng uỷ Công an
Trung ương về xây dựng đội ngũ trí thức trong lực lượng Công an nhân dân;
- Quyết định số 170/2008/QĐ-BCA-X11 ngày 18/02/2008 của Bộ trưởng
Bộ Công an quy định về nhiệm vụ của Công an các đơn vị, địa phương và các
trường Công an nhân dân đối với công tác giáo dục quốc phòng - an ninh;
- Quyết định số 455/2009/QĐ-BCA-X11 ngày 25/02/2009 của Bộ Công
an ban hành quy chế hoạt động của các Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng

hình đào tạo để chọn cử cán bộ, chiến sĩ đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng tại
các trường trong và ngoài ngành Công an, đồng thời chủ động liên kết với các
trường Công an nhân dân và các cơ sở đào tạo khác để mở các lớp đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ, từng bước nâng cao
trình độ mọi mặt cho cán bộ, chiến sĩ.
- Hằng năm, Giám đốc Công an tỉnh đều có kế hoạch chỉ đạo về công tác
quản lý cán bộ, chiến sĩ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đề ra chỉ tiêu, phương
pháp thực hiện cụ thể để triển khai thực hiện đầy đủ các chỉ đạo, chỉ tiêu của Bộ
Công an giao về công tác đào tạo và công tác tập huấn, bồi dưỡng tại địa
phương.
- Cấp uỷ - lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương đã có sự quan tâm,
chú trọng đúng mức đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác quản lý
và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; phần lớn cán bộ, chiến sĩ thực hiện nghiêm túc các
quy định của Ngành, Điều lệnh CAND, các quy định của Giám đốc Công an
Trang 17


tỉnh về công tác cán bộ; tích cực đăng ký theo học các lớp đào tạo, bồi dưỡng để
nâng cao kiến thức, nhận thức, đáp ứng tốt yêu cầu công tác ngày càng cao.
III. Kết quả thực hiện công tác quản lý cán bộ
1. Về công tác nhận xét, đánh giá cán bộ
- Thực hiện quy chế nhận xét, đánh giá sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ, công
nhân viên CAND, ban hành kèm theo Quyết định số 1302/2004/QĐ-BCA
(X13), ngày 11/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an. Ngày 28/6/2005, Giám đốc
ban hành văn bản số 749/PX13 chỉ đạo phổ biến, quán triệt Quy chế đến tận
CBCS Công an các đơn vị, địa phương để triển khai thực hiện. Công tác nhận
xét, đánh giá cán bộ được tổ chức thực hiện nghiêm túc, đã góp phần thực hiện
có hiệu quả công tác cán bộ của Công an tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Cấp uỷ, Lãnh đạo Công an các cấp có nhận thức rõ ràng, đầy đủ về vị trí,

trong CAND. Công an tỉnh đã có các văn bản chỉ đạo Công an các đơn vị, địa
phương phổ biến, quán triệt các Quyết định của Bộ trưởng đến tận cán bộ, chiến
sĩ để tổ chức thực hiện. Công tác quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy của Công an tỉnh
đã được triển khai thực hiện nghiêm túc, bám sát quan điểm chỉ đạo của Đảng
và của Bộ Công an, Đề án về công tác cán bộ, góp phần chủ động tạo nguồn bổ
nhiệm cán bộ hội đủ các tiêu chuẩn của từng chức danh, đáp ứng tốt yêu cầu
thay thế, bổ sung cán bộ lãnh đạo, chỉ huy của Công an các đơn vị, địa phương.
- Từ năm 2013 đến năm 2015, Công an tỉnh đã xét duyệt và báo cáo đề
nghị Bộ Công an xét duyệt đưa vào quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy Công an các
cấp đối với 800 đ/c, gồm: Giám đốc: 02; Phó Giám đốc: 06; đã bổ nhiệm: 01;
tiếp tục quy hoạch: 02. Trưởng phòng: 43; đã bổ nhiệm: 08; tiếp tục quy hoạch:
35. Trưởng CA huyện, thành phố: 27; đã bổ nhiệm: 07; tiếp tục quy hoạch: 20.
Phó trưởng phòng: 76; đã bổ nhiệm: 28; tiếp tục quy hoạch: 48. Phó trưởng CA
huyện, thành phố: 63; đã bổ nhiệm: 13; tiếp tục quy hoạch: 50. Đội trưởng: 172;
đã bổ nhiệm: 65; tiếp tục quy hoạch: 107. Phó đội trưởng: 326; đã bổ nhiệm:
108; tiếp tục quy hoạch: 218. Trưởng CA phường, thị trấn: 31; đã bổ nhiệm: 14;
tiếp tục quy hoạch: 17. Phó trưởng CA phường, thị trấn: 37; đã bổ nhiệm: 15;
tiếp tục quy hoạch: 22. Trưởng Đồn, Trạm CA: 08; đã bổ nhiệm: 02; tiếp tục
quy hoạch: 06. Phó trưởng Đồn, Trạm CA: 09; đã bổ nhiệm: 03; tiếp tục quy
hoạch: 06. Đã đưa 14 trường hợp ra khỏi quy hoạch do chuyển công tác, hết tuổi
quy hoạch và có sai phạm, giảm sút uy tín.
3. Công tác bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy
- Thực hiện Thông tư số: 28/2008/TT-BCA, ngày 30/10/2008 của Bộ
trưởng Bộ Công an hướng dẫn về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm
cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong CAND (thay thế Quyết định số:1303/2004/QĐBCA(X13), ngày 11/11/2004 của Bộ trưởng BCA, ban hành kèm theo Quy định
về bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ chức, miễn nhiệm cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong
CAND và Quyết định số:1304/2004/QĐ-BCA(X13), ngày 11/11/2004 của Bộ
trưởng BCA, ban hành kèm theo Quy chế điều động sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến
sỹ, công nhân viên CA và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trong lực lượng
CAND). Công an tỉnh đã ban hành các văn bản chỉ đạo phổ biến, quán triệt đầy

dưỡng cán bộ, xem đây là cơ sở quan trọng để chọn cử cán bộ đi đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ nhận thức, đồng thời chuẩn hoá chức danh cán bộ theo
quy định của Bộ Công an. Việc quy hoạch được Giám đốc Công an tỉnh chỉ đạo
Công an các đơn vị, địa phương thực hiện theo nhiệm kỳ cấp uỷ, hằng năm có rà
soát, bổ sung. Quy trình thực hiện quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng được thực hiện
chặt chẽ từ cấp uỷ, lãnh đạo Công an các cấp đến việc xét duyệt của Ban
Thường vụ Đảng uỷ Công an tỉnh, do đó chất lượng quy hoạch được đảm bảo,
có trọng tâm, trọng điểm và phù hợp với điều kiện thực tế của .
Từ khi tái lập tỉnh đến nay, đã xây dựng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ 03 lần theo nhiệm kỳ cấp uỷ: Trong giai đoạn 2003 - 2005 quy hoạch đối với
208 đồng chí, giai đoạn 2006 - 2010 quy hoạch đối với 348 đồng chí, giai đoạn
2011 - 2015 quy hoạch đối với 699 đồng chí.
Đặc biệt, để bảo bảo thực hiện tốt Kế hoạch số 42/KH-ĐUCA(X11), ngày
29/10/2009 của Đảng uỷ Công an Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ của lực lượng Công an nhân dân đến năm 2020, và tiếp tục
triển khai thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU, ngày 05/12/2006 của Tỉnh uỷ, Đề
án của Giám đốc Công an tỉnh về “Nâng cao chất lượng đội ngũ CBCS giai
đoạn 2010 - 2015 và những năm tiếp theo”, Công an tỉnh đã quy hoạch đào tạo,
bồi dưỡng giai đoạn 2011 - 2015 với số lượng 699 đ/c, trong đó quy hoạch đào
tạo nghiệp vụ ngành Công an đối với 430 đ/c, đào tạo chính trị 216 đồng chí,
đào tạo các chuyên ngành khoa học, kỹ thuật đối với 53 đồng chí.
Nhìn chung, Công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã được lãnh
đạo Công an tỉnh, Công an các đơn vị, địa phương quan tâm đúng mức; công tác
rà soát, bổ sung quy hoạch được thực hiện thường xuyên; kịp thời cử cán bộ đi
Trang 20


đào tạo nghiệp vụ, chính trị để nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu bổ nhiệm cán
bộ lãnh đạo, đưa vào diện bổ sung qui hoạch lãnh đạo, hoàn chỉnh bậc học để bổ
nhiệm Điều tra viên..., đảm bảo được tính kế thừa, phát triển của đội ngũ cán bộ,

Kinh tế, Ngoại ngữ, Tin học đối với 156 đ/c để đáp ứng các yêu cầu công tác
phòng, chống tội phạm kinh tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm có
liên quan đến yếu tố người nước ngoài;
- Bồi dưỡng pháp luật, nghiệp vụ dành cho cán bộ tốt nghiệp đại học, cao
đẳng ngành ngoài được tuyển vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân
Trang 21


đối với 128 đ/c, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ Công an phục vụ yêu cầu
công tác;
- Đào tạo tiếng dân tộc thiểu số đối với 80 đ/c đang công tác tại Công an
các huyện miền núi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và cán bộ, chiến sĩ
công tác tại một số đơn vị nghiệp vụ của Công an tỉnh, nhằm đáp ứng yêu cầu
công tác xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh tổ quốc, đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống.
2.2. Tăng cường thực hiện công tác tập huấn, bồi dưỡng kiến thức
chuyên môn cho cán bộ, chiến sĩ
Từ năm 2013 đến 2015 đã tổ chức 15 lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn với
số lượng 1.081 lượt cán bộ, chiến sĩ nhằm nâng cao kỹ năng cho cán bộ, chiến sĩ
trong từng lĩnh vực cụ thể, gồm:
- Hướng dẫn khai thác bộ công cụ phần mềm tác chiến điện tử đối với 41
đồng chí làm công tác điều tra, xử lý tội phạm sử dụng công nghệ tin học;
- Tập huấn chuyên đề công tác quản lý tạm giam, tạm giữ, truy nã và sử
dụng biểu mẫu tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, xử lý tội phạm đối với
67 đ/c. Đào tạo cấp giấy phép lái xe ôtô hạng B2 và hạng D cho 80 đ/c. Đào tạo
cấp chứng chỉ lái xuồng máy trong lực lượng CAND đối với 62 đ/c;
- Tập huấn nghiệp vụ Cảnh sát kinh tế đối với 137 đ/c; kiến thức về quốc
phòng, an ninh đối với 63 đ/c; nghiệp vụ cơ yếu cho 37 đ/c; nghiệp vụ thông tin
liên lạc vô tuyến điện cho 34 đ/c; nghiệp vụ Cảnh sát khu vực và Công an thị
trấn chính qui cho 148 đ/c; nghiệp vụ hồ sơ An ninh cho 52 đ/c; nghiệp vụ hồ sơ

nhân dân cho 145 cán bộ tốt nghiệp các Trường đại học, cao đẳng ngoài ngành
được tuyển chọn vào công tác trong lực lượng Công an nhân dân (gồm Công an
các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh), liên kết Học
viện Cảnh sát nhân dân mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cấp chứng chỉ điều tra cho
112 đồng chí làm công tác điều tra và điều tra viên các cấp của Công an tỉnh,
liên kết với Ban phòng chống lụt bão tỉnh Quảng Nam mở lớp đào tạo, cấp
chứng chỉ lái xuồng máy cao tốc cho 72 học viên là cán bộ của Công an các
huyện, thành phố và các đơn vị nghiệp vụ để phục vụ các yêu cầu công tác
phòng, chống lụt bão; bồi dưỡng tin học cho 40 đồng chí là lãnh đạo, chỉ huy
Công an các đơn vị, địa phương và hàng chục lớp bồi dưỡng ngắn hạn khác tại
Công an tỉnh cho hơn 1.000 lượt người học,... góp phần đáp ứng nhu cầu đào
tạo, bồi dưỡng thường xuyên của Công an tỉnh và Công an các tỉnh, thành phố
lân cận.
- Đặc biệt, Công an đã mở 01 lớp đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu
số cho cán bộ chiến sĩ Công an, nhất là số đang công tác tại các huyện miền núi,
là một trong những nội dung có ý nghĩa nhằm xây dựng, phát triển phong trào
toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, tạo sự gần gũi giữa cán bộ Công an với đồng
bào người dân tộc thiểu số, đồng thời góp phần giữ vững ổn định tình hình an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa bàn miền núi, vùng đồng bào thiểu
số sinh sống. Do điều kiện các dân tộc thiểu số sống trên địa bàn tỉnh chỉ có
ngôn ngữ nói mà không có ngôn ngữ viết chính thức nên công tác bồi dưỡng
tiếng dân tộc thiểu số có những khó khăn nhất định, Công an tỉnh đã liên kết với
Trung tâm giáo dục thường xuyên - Hướng nghiệp huyện Bắc Trà My đầu tư
nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn chữ viết tiếng Cadong thành giáo trình phục vụ
giảng dạy, học tập và đã mở 01 lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc Cadong cho 40 cán
bộ chiến sĩ công tác tại Công an các huyện miền núi (như Nam Trà My, Bắc Trà
My) và một số đơn vị nghiệp vụ của Công an tỉnh.
4. Xây dựng, củng cố hệ thống cơ sở huấn luyện, bồi dưỡng nghiệp vụ
trong Công an tỉnh
Trên cơ sở đề nghị của Công an tỉnh và quyết định của Bộ trưởng Bộ

Trong những năm qua, Công an tỉnh đặc biệt chú trọng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ; khuyến khích cán bộ, chiến sĩ tự đào tạo, nâng cao trình độ
trên các lĩnh vực khoa học,kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học...; đồng thời xây dựng qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng để chọn cử cán bộ,
chiến sĩ đi đào tạo theo qui hoạch. Riêng đối với các loại hình đào tạo tin học,
ngoại ngữ thì khuyến khích cán bộ, chiến sĩ đăng ký tự đào tạo ngoài giờ hành
chính, vào ban đêm để không ảnh hưởng đến công tác chuyên môn và đảm bảo
đủ điều kiện về tiêu chuẩn các chức danh lãnh đạo, chỉ huy, các chức danh tư
pháp (được phân cấp cho thủ trưởng công an các đơn vị, địa phương quyết định
nếu không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị của đơn vị).
Bên cạnh đó, với mức kinh phí đào tạo bồi dưỡng thường xuyên do Bộ
cấp hằng năm công an tỉnh đã xây dựng kế hoạch chi phục vụ công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ đảm bảo theo hướng dẫn của Bộ. Nhưng do mức kinh phí Bộ
Công an cấp hằng năm còn hạn chế nên chỉ ưu tiên hỗ trợ kinh phí đào tạo đối
Trang 24


với cán bộ, chiến sĩ được cử đi đào tạo các chuyên ngành pháp y, bác sỹ, hỗ trợ
một phần học phí đối với cán bộ công tác tại các huyện miền núi đi học và chi
trả thù lao giảng dạy... cho các lớp tập huấn ngắn hạn mở tại Công an tỉnh. Đồng
thời, khuyến khích Thủ trưởng các đơn vị, địa phương tận dụng nguồn thu nhập
hợp pháp để hỗ trợ cho việc mở các lớp tập huấn nghiệp vụ ngắn hạn tại Công
an tỉnh.
V. Những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ
1. Về ưu điểm
1.1. Đối với công tác quản lý cán bộ
- Công tác quy hoạch lãnh đạo, chỉ huy luôn được Cấp uỷ, Lãnh đạo Công
an các cấp quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện thường xuyên, chặt chẽ, tuân thủ
nguyên tắc, quan điểm của Đảng, của Bộ Công an và của Tỉnh uỷ Quảng Nam


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status