CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỦA HUYỆN NHO QUAN KHI BƯỚC SANG THẾ KỶ XXI - Pdf 27

I. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC VÀ DÀO TẠO
CỦA HUYỆN NHO QUAN KHI BƯỚC SANG THẾ KỶ XXI
1. Khái quát Đặc điểm địa lí kinh tế xã hội của huyện nho quan
Nho Quan là một huyện miền núi phía bắc nằm ở tỉnh Ninh Bình trong
khoảng 20,19 độ pía bắc đến 105,4 độ kinh đông, ở đoạn giữa vùng núi từ Hoà
Bình chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam đến thị xã tam điệp. Địa hình và cảnh
chí thiên nhiên đẹp có nhiều hang động như hang Thổ tích (Thượng Hoà) hang
Ngọc Hao (Lạc vân), hang Đăng Đắng (Cúc phương)…cảnh quan hữu tình và được
nhiều người biết đến. Ở Nho Quan rất có tiềm năng du lịch và thu hút được nhiều
khách du lich trong và ngoài nước với vườn quốc gia Cúc Phương, và nhiều hệ
thống hang động như động Vân Trình, động Người Xưa(Cúc phương). ngoài ra còn
có nhiều hồ với cảnh quan thiên nhiên đẹp có khả năng làm khu du lịch sinh thái
như hồ Đồng chương và hồ Yên Quang.
Diện tích tự nhiên 45.8333 ha. Đất đai hình thành 3 vùng rõ rệt. Vùng rừng
núi vùng bán sơn địa và nhiều vùng đồng chiêm trũng. Độ cao trung bình so với
mặt nước biển từ +3 đến +5. Trước kia độ che phủ rừng cao, nước về từ từ, độ ngập
thấp, nước về nhanh, nạn úng lụt sảy ra thường xuyên.Ở Nho Quan rừng chiếm
21% diện tích tự nhiên toàn huyện, có nhiều cây cỏ và cầm thú có giá trị kinh tế
cao. Rừng đồi tập chung khá lớn, chạy dài 40km, từ xích thổ, Thạch Bình đến Sơn
Hà, Quảng Lạc. Đặc biệt Nho Quan có rừng nguyên sinh Cúc Phương rộng 22,200
ha riêng phần thuộc đất Nho Quan rộng 11, 350 ha, còn lại là thuộc tỉnh Hoà Bình
và Thanh Hoá, Có nhiều loại động vật và thực vật quý hiến và là thắng cảnh thiên
nhiên của đất nước. Có những động thực vật được ghi vào sách đỏ và đang được
nuôi dưỡng và bảo tồn trong rừng Cúc Phương như voọc quần đùi trắng. khỉ bạc
má, sao la vv...Theo con số điều tra chưa đầy đủ, riêng về thực vật đã tìm thấy
2.000 loài. Cúc Phương là nơi gặp nhau của các luồng thực vật di thực từ nhiệt đới
Â'n Độ, Miến Điện, như các loài chò xanh, chò nhai, chò chỉ, các loài trong họ trò
1
đao. động vật ở đây có 232 loài có xương sống, gồm 64 loài thú, 137 loài chim, 36
loài bò sát, 17 loài lưỡng thê. Riêng động vật không xương sống ở rừng cúc
phương có tới hàng ngàn loài. Cúc phương là sứ sở của những loài bướm có màu

(1397) đổi là phủ thiên quan. Đến triều Tự Đức năm thứ 15 (1861) đổi thành Phủ
Nho Quan.
Năm 1921, ba tổng Đề Cốc, Mất Một, Xích Thổ thuộc huyện Yên Hoá sáp
nhập vào huyện Gia Viễn. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 điều chỉnh cắt tổng
Vân Trình (huyện Gia Viễn) nhập vào Huyện Nho Quan.
Đầu năm 1953 uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu III quyết định sát
nhập 5 xã Quang Minh, Phú Thịnh, Bảo Lương, Đoàn Kết và Yên Lương thuộc
huyện nho quan vào Yên Thuỷ (Hoà Bình).
Tháng 4 năm 1977, theo nghị quyết của Hội Đồng chính phủ số 125/cp ngày
27/4/ năm 1977. do sự chỉ đạo của Trung ương, phân bố lại các khu vực hành chính
đã sát nhập hai huyện Nho Quan và Gia Viễn thành huyện Hoàng Long.
Tháng 4 năm 1981, do yêu cầu của tình hình đòi hỏi phải tăng cường lãnh
đạo và quản lý cấp huyện. Hoàng Long lại được điều chỉnh lại địa giới hành chính,
tách thành hai huyện Hoàng long và Gia Viễn.
Ngày 23 tháng 11 năm 1993 theo nghị định 88/CP của chính phủ đổi tên
huyện hoàng long trở thành tên cũ là Huyện Nho Quan.
Huyện Nho Quan nằm ở vùng rừng núi tiếp giáp với tỉnh Hoà bình và Thanh
Hoá, có Đường Quốc lộ 12B từ hoà bình đi qua thị trân Nho Quan, gặp đường số 1
tại Tam Điệp. Quốc lộ 45 từ Rịa đi qua Sòng Cạn (Thạch Thành, Thanh Hoá).
Đường tỉnh lộ 477 từ thị trấn Nho Quan qua Gia Viễn gặp quốc lộ I ở Gián Khẩu,
đường 479A từ ngã ba gia tường đi Chi Nê (Hoà Bình), đường 491 (đường Nguyễn
Văn Trỗi) từ ngã ba quỳnh lưu gặp đường số 1 tại cầu Huyện (Hoa Lư), đường
chiến lược ( mở ra trong kháng chiến chống mỹ) từ ngã ba gia lâm qua Thạch Bình,
Đồng phong, đi Cúc phương.
3
Nho Quan có sông Lạng chảy từ Chiêm Hoá (Hoà Bình) qua thị trấn Nho
Quan gặp sông bôi tại Kenh Gà. sông ỷ Na từ hoà bình qua gia lâm gặp sông bôi tại
Canh Bầu ( Gia thuỷ). Sông Bến Đang từ Quỳnh Lưu qua Sơn Hà, Yên Sơn, (Tam
Điệp).
Từ thị trấn Nho Quan có thể đi Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Hà Nam,

Qua những bút tích, sắc phong, thần phả… còn gữi ở làng bản, thônn xóm Nho
Quan, đã nói lên vùng đất này từ xưa con người đã biết đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau
để chống thiên tai dịch hoạ , bảo vệ cuộc sống. Từ trong cuộc sống con người Nho
Quan đã sớm nảy nở tình cảm yêu thương thôn xóm, làng bản yêu thương, Sự đoàn
kết giữa các dân tộc, tôn giáo đựoc xem như là đạo nghĩa cao cả trong mối quan hệ
xã hội ở Nho Quan.
2. Nhân dân huyện Nho Quan phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc
Nho quan là một huyện miền núi đời sống kinh tế vẫn còn khó khăn. nghề
chính vẫn là nông nghiệp. Nhưng dù đời sống kinh tế còn khó khăn nhưng với
truyền thống hiếu học của dân tộc. Nhân dân trong huyện cũng đã phát huy được
tinh thần hiếu học đó cả trong chiến tranh lẫn thời bình.
Trong thời kỳ pháp thuộc và thời kỳ phong kiến tỷ lệ người biết đọc biết viết
là rất ít vì chính sách ngu dân của thực dân pháp, người được đi học chủ yếu vẫn là
con em của địa chủ phong kiến và tay sai của pháp nên ở trong huyện người viết
đọc và biết viết là rất ít.
Nhưng đến ngày 8/9/1945 Hồ Chủ Tịch ký xác lệnh thành lập nha bình dân
học vụ để phụ trách việc chống nạn mù chữ. Tháng 10 năm 1945. Hồ chủ tịch ra lời
kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phong trào chống nạn thất học. Hoà cùng không
khí thi đua của cả nước chống nạn mù chữ nhân dân huyện Nho Quan, Kinh cũng
như Mường, lương cũng như giáo trước những khó khăn thiếu thốn về vật chất. Đã
có nhiều sáng kiến để tổ chức dạy và học. Nhiều hình thức kiểm tra và nhắc nhở
5
nhau học tập: như kiểm tra chữ trước khi vào chợ, những người biết chữ thì vào
cổng sáng những người không biết chữ thì vào cổng tối.
Không khí học tập diễn ra sôi nổi ở khắp mọi nơi, từ trẻ con đến người lớn
tuổi đều đi học ở những lớp bình dân học vụ. Ngoài ra lãnh đạo huyện còn tạo điều
kiện để cho nhân dân đi học như mở nhiều lớp học, lớp học sáng, lớp học trưa, lớp
học tối phù hợp với giờ giấc lao động để mọi người tranh thủ đến học tập.
Điều kiện kinh tế còn khó khăn cơ sở vật chất không có chỉ là những lớp hộc
tạm bợ, đồ dùng học tập cũng rất thiếu thốn nhưng nhân dân trong huyện đã khắc

đồng thời cũng có những đòi hỏi cao hơn về chất lượng giáo dục.
Để có thể tìm hiểu rõ hơn về tình hình giáo dục của huyện Nho Quan. Tôi
xin trình bày khái quát về giáo dục của huyện trong những năm đầu thế kỷ XXI. để
chúng ta có thể thấy được những ưu điểm và tồn tại trong những năm đầu đổi mới
giáo dục. để nền giáo dục của huyện Nho Quan nói chung và của cả nước nói riêng
từng bước đi vào hoàn thiện.
II. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC CỦA NHO QUAN KHI BƯỚC SANG THẾ KỶ
MỚI
A. Những thành tựu đạt được trong công tác giáo dục
1. Sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển khá nhanh về quy mô và cả số
lượng chất lượng
Việc mở rộng mô hình nhà trẻ dân lập trường lớp bán công bổ túc văn hoá
dạy nghề theo hướng da dạng hoá các mô hình giáo dục bước đầu thu hoạch được
những kết qủa tốt khẳng định lối đi đúng phù hợp với điều kiện địa phương. tỷ lệ
các cháu trong độ tuổi đến trường tăng so với kế hoạch. Đội ngũ giáo viên từng
bước được chuẩn hoá theo quy định. Phong trào học tốt, dạy tốt, nề nếp trường lớp
có chuyển biến rõ nét.
Chất lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn được nâng lên. Số học sinh
được lên lớp tốt nghiệp cấp tiểu học trung học cơ sở các năm học đạt từ 97-99%.
7
Trung học phổ thông đạt từ 90 – 95 %. Hàng năm có từ 20 đến 50 học sinh đạt giải
các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh.thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, trên cơ
sở trường lớp được nâng cấp theo hướng kiên cố hoá đến nay có 27/ 27 xã có đã có
trường học kiên cố, các trường trong huyện chủ yếu là nhà cao tầng các trang thiết
bị trường học được đầu tư nhiều. ở những trường cấp ba trong huyện đã được trang
bị nhiều máy vi tính để phục vụ giảng dạy bô môn tin học trong nhà trường. Ở
huyện nho quan đã có hai trường tiểu học đạt tiêu chuẩn quốc gia. 14/27 xã phổ cập
chương trình trun học cơ sở đạt 52% vượt chỉ tiêu 2%.
Do có sự chỉ đạo của cấp uỷ, HĐND, UBND từ tỉnh đến huyện, xã. Có sự
chỉ đạo chuyên môn sâu sát của Sở giáo dục - đào tạo Ninh Bình, sự ủng hộ của các

Nhóm
Học
sinh
Số HS so với kế hoạch
a. Giáo dục MN 29
Nhà trẻ 155 2500 đạt 100% KH
Mẫu giáo 255 5300 đạt 100% KH
b. GD phổ thông
Tiểu học 27 421 10 939 Giảm 994 HS so với cùng kỳ
năm trước
Đạt 100% KH
Trung học cơ sở 27 333 13 085 Giảm 977HS so với cùng kỳ
năm trước
Đạt 98.3% KH
Có 485 học viên tham gia bổ túc THCS
Có 27 trung tâm học tập cộng đồng, huy động được 25346 lượt người tham
gia.
Tỉ lệ trẻ 6 tuổi huy động vào lớp 1 đạt 100%; tỉ lệ học sinh hoàn thành
chương trình lớp 5 vào lớp 6 đạt 99,2%.
- Toàn ngành thực hiện nghiêm túc kế hoạch dạy học theo đúng hướng dẫn
nhiệm vụ năm học.
9
- Phương pháp dạy học của giáo viên tiếp tục được đổi mới theo hướng phát
huy tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh. Việc sử dụng đồ dùng,
thiết bị dạy học tiếp tục được chú trọng và phát huy hiệu quả.
2. Chất lượng giáo dục mầm non
Tiếp tục thực hiện các chuyên đề về lễ giáo, vệ sinh dinh dưỡng, làm quen
với môn Toán, Chữ cái, đẩy mạnh chuyên đề tạo hình, Giáo dục âm nhạc trong các
lớp mẫu giáo. Không ngừng nâng cao chất lượng dạy và nuôi các cháu. Đảm bảo
mức ăn hàng ngày của các cháu từ 2.000 đ/ngày/cháu - 2.500 đ/ngày/cháu.

- Đến tháng 5/2006, toàn ngành có 83% giáo viên mầm non; 98,3% giáo viên
tiểu học và 95% giáo viên THCS đạt trình độ chuẩn trở lên (trong đó 2,5% giáo
viên mầm non; 40,4% giáo viên tiểu học và 15,4% giáo viên THCS đạt trình độ
trên chuẩn).
- Thực hiện Nghị quyết 16/2000/NQ-CP; Nghị quyết 09/2003/NQ-CP của h
phủ, toàn ngành đã thực hiện tinh giản biên chế 79 người, trong đó có 48 cán bộ
giáo viên nghỉ hưu trước tuổi và 31 cô giáo mầm non ngoài biên chế về nghỉ một
lần.
- Thực hiện tốt công tác bồi dưỡng cán bộ. Trong năm đã có 336 cán bộ giáo
viên từ bậc học Mầm non đến bậc học THCS đi học các lớp quản lý giáo dục, đại
học, cao đẳng, trung cấp, bằng các hình thức học chuyên tu, tại chức và từ xa.
- Công tác bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng, thay sách, bồi dưỡng hè
được các cấp quản lí và các nhà trường tổ chức thực hiện nghiêm túc theo sự Chỉ
đạo của Bộ, của Sở và UBND huyện. Trong năm học, toàn ngành đã tổ chức bồi
dưỡng cho 1816 cán bộ, giáo viên. Các lớp bồi dưỡng được tổ chức khá khoa học
đảm bảo chất lượng.
- Công tác quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, giáo viên được thực
hiện đúng quy trình, tiến hành thường xuyên, hiệu quả.
11
- Số đảng viên trong ngành không ngừng tăng lên. Toàn ngành hiện có 671
đảng viên (chiếm tỉ lệ 35,3%).
b. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học và trường chuẩn Quốc
gia.
Toàn huyện không còn học 3 ca, khuôn viên trường học khang trang đẹp đẽ
- 96% trường học có tường bao, cổng, biển trường - nhiều trường xây dựng sân
chơi bãi tập riêng - sân lát gạch hoặc bê tông, trồng thảm cỏ - tạo nên cảnh quan
xanh - sạch - đẹp. 90% số trường đã được cấp giấy quyền sử dụng đất .
Trang thiết bị cho dạy và học các trường quan tâm đầu tư thoả đáng - đến
nay 47 trường có thư viện đạt tiêu chuẩn tiên tiến, 6 thư viện đạt tiêu chuẩn xuất
sắc - các trang thiết bị phục vụ giảng dạy nghề, toán, vật lý, sinh học, hoá học, lịch

non; 19 trường tiểu học, 3 trường THCS) so với cùng kì năm học trước tăng 6
trường (2 trường mầm non, 3 trường tiểu học, 1 trường THCS). Riêng cấp tiểu học,
tỷ lệ trường đạt chuẩn QG toàn huyện là 19/27 đạt 70,4%, Trường tiểu học Thị trấn
Nho Quan đang hoàn thiện các điều kiện để được công nhận trường tiểu học đạt
chuẩn Quốc gia mức độ 2.
- Công tác chỉ đạo của Phòng tiếp tục được đổi mới và nâng cao hiệu quả.
Công tác xây dựng kế hoạch được coi trọng, thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo theo kế
hoạch và bằng kế hoạch. Phòng Giáo dục đã tổ chức duyệt kế hoạch năm học cho
100% các trường; chỉ đạo và hướng dẫn các đơn vị đổi mới công tác xây dựng kế
hoạch năm học, đảm bảo chi tiết, cụ thể, phù hợp với tình hình cụ thể của địa
phương, đơn vị.
- Các văn bản chỉ đạo của Phòng Giáo dục được ban hành kịp thời, đúng
thẩm quyền và đúng chức năng. Việc tổ chức thực hiện ở cơ sở nhìn chung là
nghiêm túc.
13
- Công tác tổ chức các kỳ kiểm tra tiếp tục đổi mới ở tất cả các khâu từ ra đề,
coi, chấm.
- Công tác thanh tra, kiểm tra tiếp tục được chú trọng:
+ Thanh tra toàn diện và chuyên đề 82 trường, trong đó: 67 đơn vị xếp loại
Tốt, 14 loại Khá và 1 đơn vị xếp loại Đạt.
+Thanh tra công tác quản lý của 82 Hiệu trưởng và chuyên trách, trong đó:
75 Đ/c loại Tốt; 6 Đ/c loại Khá và 1 Đ/c loại Đạt.
+ Thanh tra 438 giáo viên trong đó 315 giáo viên xếp loại Tốt; 115 giáo viên
loại Khá; 8 giáo viên xếp loại Đạt.
+ Thanh tra đổi mới chương trình giáo dục phổ thông tại các trường.
+ Công tác kiểm tra nội bộ của Hiệu trưởng đã được quan tâm nhiều hơn, số
lượng giáo viên được kiểm tra đảm bảo chỉ tiêu kế hoạch đề ra, chất lượng và hiệu
quả kiểm tra đã được chú trọng.
Hoạt động thanh tra đã góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm, giữ vững kỷ
cương nền nếp về quản lý, nền nếp dạy học; phát hiện, điều chỉnh và kiến nghị xử

là lấy điểm khuyến khích cho thi tuyển sinh.
2. Việc đổi mới phương pháp dạy học ở một số giáo viên vẫn còn lúng túng.
Sau nhiều năm bồi dưỡng, đến nay, vẫn còn giáo viên chưa nắm chắc về chuyên
môn. Đội ngũ giáo viên vẫn còn tình trạng vừa thừa, vừa thiếu và không đồng bộ
về cơ cấu chủng loại, nhất là với giáo viên THCS, giáo viên tiểu học còn thừa nhiều
so với quy định.
3. Công tác quản lí, chỉ đạo ở một số đơn vị chưa sâu sát, chặt chẽ. Cá biệt,
có biểu hiện buông lỏng quản lí, nhất là quản lí cán bộ, giáo viên. Việc phối hợp
với gia đình và xã hội để quản lí học sinh còn bộc lộ nhiều bất cập. Công tác bảo
quản, sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học còn bộc lộ nhiều yếu kém. Việc chấp hành
kỉ cương, nền nếp, quy chế chuyên môn còn nhiều thiếu sót để xảy ra tình trạng vi
15
phạm quy chế cho điểm, tiếp nhận, chuyển trường. Một số đơn vị chưa thực hiện
nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo.
4. Ở một số nhà trường, công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối
sống chưa được quan tâm đúng mức, ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội vào học
đường vẫn có chiều hướng gia tăng.
5. Chưa khắc phục triệt để bệnh thành tích trong giáo dục, biểu hiện:
Thứ nhất, dễ dãi trong đánh giá, xếp loại cán bộ, giáơ viên. Tỉ lệ giáo viên
xếp loại xuất sắc quá cao. Kết quả này không phản ánh đúng thực trạng trình độ
chuyên môn của đội ngũ hiện nay.
Thứ hai, dễ dãi trong đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh.
Theo báo cáo của các đơn vị, tỉ lệ học sinh học lực khá, giỏi năm học vừa
qua là lớp 5: 49,7%; lớp 9: 27%; Nhưng kết quả khảo sát chất lượng đầu năm lớp 6
và kết quả thi tuyển sinh lớp 10 lại không cho kết quả tương ứng, có học sinh xếp
loại học lực giỏi nhưng thi tuyển sinh lại bị điểm kém.
Thứ ba, trong tự đánh giá xếp loại thi đua của các đơn vị, có xu hướng thổi
phồng thành tích, che dấu hoặc giảm nhẹ khuyết điểm, thiếu sótBên cạnh những
thành tích mà ngành đã đạt được cũng cần phải nhận thấy còn những mặt hạn chế,
yếu kém và bất cập mà ngành chưa khắc phục được - đó là :

sinh còn chạy theo thành tích.
III. ĐẢNG BỘ HUYỆN NHO QUAN LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC GIÁO DỤC
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
1. Những quan diểm chung của dảng về giáo dục đào tạo khi bước sang thế
kỷ XXI
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban bí thư và Quyết định số
09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tiến hành rà soát phân loại giáo viên
theo quy chế; thực hiện quy định bồi dưỡng, sử dụng nhà giáo chưa đạt trình độ
17
chuẩn. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc các chế độ và chính sách đãi ngộ của Nhà
nước và của Tỉnh đối với cán bộ giáo viên.
- Tạo điều kiện để CB, GV được đào tạo, bồi dưỡng bằng nhiều hình thức
(tập trung, tại chức, từ xa) để nâng cao tỷ lệ cán bộ quản lý và giáo viên có trình độ
đào tạo trên chuẩn.
Khẩn trương triển khai thực hiện đề án tin học ứng dụng công nghệ thông
tin và truyền thông trong trường phổ thông giai đoạn 2004-2006 của ngành. Tăng
cường giáo dục chính trị – tư tưởng, đạo đức cho học sinh , thực hiện nghiêm túc
chỉ thị số 23/CT-TW ngày 27/3/2003 của Ban bí thư TW Đảng về đẩy mạnh nghiên
cứu – tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh phong trào xây
dựng đời sống văn hoá trong trường hoc; phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà
trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục đạo đức và lối sống, phòng chống ma
tuý, HIV/AIDS, an toàn giao thông, các tệ nạn xã hội và tội phạm trong học sinh .
Tiếp tục thực hiện chỉ thị số 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày 27/3/2003 về tằn
cường giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cho học sinh phổ thông, bảo đảm chất
lượng và hiệu quả của hoạt động giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề nhằm góp
phần thực hiện phân luồng trong đào tạo. Nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
thể chất, giáo dục quốc phòng, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
và công tác y tế học đường. Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoại khoá, tạo điều
kiện thuận lợi để học sinh phát triển toàn diện.
chức năng và Đảng ủy, UBND các xã, thị trấn để đảm bảo các điều kiện về

Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, dạy có chất lượng các môn học và
tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Bảo đảm các yêu cầu về giáo dục thể chất;
giáo dục thẩm mỹ; giáo dục hướng nghiệp; giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh,
phòng chống các tệ nạn xã hội, tội phạm, ma túy, HIV/AIDS; giáo dục trật tự an
toàn giao thông và giáo dục pháp luật nói chung. Chuẩn bị các điều kiện tham gia
Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh năm 2007.Ngành đã làm tốt công tác tham mưu với
19


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status