Hồ chí minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa mác lênin về con người và vai trò của con người đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở việt nam tiểu luận cao học - Pdf 42

MỤC LỤC
Mở đầu

...........................................................................................................1

1. Lý do tính cấp thiết của đề tài…………………………………………….......1
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài. ………………………………………….........2
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan. ………………………………………......2
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………………......2
5. Phương pháp nghiên cứu. ……………………………………………….........2
6. Kết cấu tiểu luận..…………………………………………………………......2
Nội dung.……………………………………………………………………......3
Chương 1 : Quan niệm cơ bản về con người……………………………….....3
1.1 Khái niệm...…………………………………………………………….........3
1.2 Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và vai trò của con người... 5
Chương 2:Hồ chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ
nghĩa Mác - Lênin về con người và vai trò của con người đối với cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam..…………………………....................................8
2.1 Hồ chí Minh vận dụng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
con người……...……………………………………............................................8
2.2 Hồ chí Minh vận dụng phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
vấn đề vai trò con người.………………………….............................................14
Chương 3: Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò con người đối với sự
nghiệp cách mạng ở Việt Nam. .………………………………………….......17
3.1 Về mặt lý luận..……………………………………………………….........17
3.2 Về măt thực tiễn………………………………………………………........18
Kết luận.…………………………………………………………………….....24
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………. ..25
Danh mục tài liệu viết tắt…………………………………………………......66



hội chủ nghĩa ở Việt Nam”

2


2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Tiểu luận nghiên cứu vai trò của con người trong cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
Sự sáng tạo của Hồ chí Mình về con người trong xã hội chủ nghĩa
Ý nghĩa của nó đối với sự giải phóng con người trong giai đoạn hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan.
Hiện nay có nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu có liên quan.
Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện, đại hóa . Phạm
minh Hạc, Nxb chính trị quốc gia 1996
Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học từ
28-29/7/ 1993 tại thành phố Hồ chí Minh
Các tài liệu này đã nhắc đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của đề tài
tiểu luận. Nhưng hầu hết vẫn chưa đi vào nghiên cứu đến sự kế thừa phát huy
các luận điểm của Hồ chí Minh về con người vì vậy tác giải nghiễn cứu và làm
rõ hơn nữa về vai trò của con người trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
4. Mục tiêu nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể làm tôt đề tài tác giả nhận định cần phải hoàn thành nhữn vấn
đề sau:
Quan niệm cơ bản về con người
Hồ chí Minh vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người và vai trò của con người đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò con người đối với sự nghiệp cách
mạng ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Tác giả dùng phương pháp nghiên duy vật lịch sử và tổng hợp tài liêu.

của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là
phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là
do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn
con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác
quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình

4


nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra
được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy
vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm
giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi
không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu
ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng
tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản
phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan
điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen
quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do
đó đời sống con người chỉ được xem xét vè mặt tinh thần Song Heghen cũng là
người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần
mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng
thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật
cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê phán
tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm

với các sinh vật khác do tính xã hội hóa, chịu sự tác động sâu sắc của xã hội
trong quá trình lịch sử. Con người chỉ thành người trong mối quan hệ xã hội
trong xã hội, tách biệt khỏi xã hội con người sẽ không có tính người.
Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ của các mối quan hệ xã
hội, trong các quan hệ xã hội thì quan hệ sản xuất cơ bản nhất vì nó chi phối mọi
hoạt động của con người từ sản xuất vật chất đến hoạt động của con người từ
sản xuất vật chất đến hoạt động tinh thần. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua
nhiều phương thức sản xuất khác nhau trên cơ sở những phương tiện sản xuất đó
tạo ra những mối quan hệ xã hội khác nhau, vì vậy nó cũng tạo ra những con
người khác nhau, khác nhau về mặt xã hội cho các thời đại riêng biệt. trong xã
6


hội có phân chia giai cấp, con người gắn với những giai cấp nhất định, không có
con người phi giai cấp.
Là sản phẩm của xã hội, của lịch sử con người được kế thừa những tiền
đề, những điều kiện của giai đoạn lịch sử chước đó. Chủ nghĩa tư bản tạo ra nền
đại công nghiệp cơ khí phát triển cao và cùng với nó là giai cấp công nhân hiện
đại với những phẩm chất tiên tiến, tiêu biểu cho con người mới trong xã hội
tương lai xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là những tiền đề quan trọng cho con người
mới ra đời và phát triển.
Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa phải gắn với những điều kiện kinh
tế xã hội, tạo ra hoàn cảnh để con người mới hình thành phát triển. Mặt khác cần
phải chú ý đến tính kế thừa, chú ý đến hai mặt tự nhiên và xã hội của con người,
chú ý đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần để không rơi vào chủ nghĩa
duy tâm.
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử vừa là chủ thể làm ra lịch sử, lịch sử
của bản thân con người, do con người sáng tạo ra. Hoạt động của con người được
quy định một cách khách quan bởi các điều kiện kinh tế và xã hội. Ăngghen cho
rằng : “ chúng ta sáng tạo ra lịch sử của chúng ta, nhưng là một sáng tạo với những

cung văn hoá, thư viện sân thể thao.
Cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu không thể phát huy vai trò của con người vì
vậy phải đẩy mạnh cuộc cách mạng văn hóa, để đào tạo đạo đức giáo giục lối
sống và văn hoá cho con người

8


Chương II: HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG
TẠO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI
TRÒ CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG XHCN Ở VIỆT NAM
2.1 Hồ chí Minh vận dụng, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh
là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người.
Trong đó, vấn đề con người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề
trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân,
dựa vào dân, tổ chức và phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào
tạo và phát huy mọi năng lực của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng
đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ
sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất
nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung cơ bản của toàn bộ tư tưởng về con
người của Hồ Chí Minh.
Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là
thành viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống
cá nhân hài hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng
bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" [1, 56]
. Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người
một cách chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở

mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự nô dịch, áp bức. Toàn bộ các tư
tưởng, lý luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn
10


về cách mạng (chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách
mạng, về hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo
dục con người v.v...) về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu
của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân
chủ nhân dân để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền
đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần
phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến
đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới
mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa
vào lực lượng của toàn dân". Về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh không bao giờ
quan niệm hình thái xã hội đó như một mô hình hoàn chỉnh, một công thức bất
biến. Bao giờ Người cũng coi trọng những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra những mục tiêu của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất.
Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là
làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm

tùng tiêu cực, người Đông Dương ẩn giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào
thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến" [4,209]. Tin vào quần
chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là một trong những phẩm chất cơ
bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ khác căn bản, khác về chất,
giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của các nhà Nho yêu nước
xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí Minh) về con người.
12


Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết toàn dân",
thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích cực "lấy
dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan điểm
của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách",
một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả
những bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một
cách nhiệt thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về
nhân dân, chưa có đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan
điểm tin vào dân, vào nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm
của Mác, Ăngghen, Lênin: "Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính
ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương yêu nhân dân
của Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền
thống nhân ái ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước
khác có cùng quan điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư
tưởng "ái dân" của Người là tình thương ấy không bao giờ dừng lại ở ý thức, tư
tưởng mà đã trở thành ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau
khổ, áp bức bất công giành lại tự do, nhân phẩm và giá trị làm người cho con
người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước gắn bó không tách rời với chủ

cái tôi của mỗi cá nhân. Trong chế độ XHCN và CSCN, mỗi người là một bộ
phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong
xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của
lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá
nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn. CNXH là một chế độ xã hội mang tính
nhân văn, nhân bản sâu sắc, hướng tới vì con người, cho con người, phát huy
sức mạnh của con người cá nhân cũng như con người cộng đồng, ở đó cái tôi và
cái chúng ta giao hòa với nhau.

16


Để có được một chế độ XHCN như vậy, phải tập trung phát triển kinh tế,
văn hóa trong đó kinh tế phải được ưu tiên hàng đầu, kinh tế là yếu tố quyết định
sự thắng lợi của chế độ XHCN so với các chế độ xã hội khác. Người khẳng định
tại Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần chúng
ngày 11-02-1960: Muốn tiến lên CNXH thì phải phát triển kinh tế và văn hóa.
Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới
vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước. Nhấn mạnh vai trò của phát triển kinh
tế với thắng lợi của chế độ XHCN, nói chuyện với nhân dân Thủ đô về thành
công của Đại hội lần thứ XXI Đảng Cộng sản Liên xô tối 19-02-1959, Người
khẳng định: “Tờ báo tư sản Mỹ Cộng hòa mới viết: “Liên Xô chọn kinh tế làm
chiến trường, trên chiến trường ấy chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi” [4,338].
Như vậy, nhìn nhận kinh tế như điểm mấu chốt của sự thắng lợi giữa chế độ xã
hội này với chế độ xã hội khác, có thể thấy quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về CNXH là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, có tính khả thi. Tuy nhiên, dù
là phát triển kinh tế hay văn hóa thì động lực chính ở đây vẫn không có cái gì
khác ngoài sức mạnh của quần chúng nhân dân. Đảng, Nhà nước chỉ giữ vai trò
của người lãnh đạo, quản lý, định hướng chứ không thể làm thay nhân dân:
CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên. Đó là công trình tập

Việt Nam, và người đứng ra gánh vác nhiệm vụ phải giành thắng lợi trong cuộc
thách thức ấy cũng không phải là ai khác, mà chính là con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam. Con người luôn đứng ở trung tâm của mọi quá trình lịch sử, trên
đất nước ta đã như vậy, ở các nước khác trên thế giới và trong toàn bộ lịch sử
loài người cũng như vậy. Con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã sáng tạo
ra lịch sử của dân tộc, làm nên những sự tích phi thường, xây dựng nên truyền
thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Con người ấy sớm có
tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước nồng nàn, chí khí đấu tranh bất khuất,
dũng cảm và thông minh trong chiến đấu, cần cù và sáng tạo trong lao động.
Thời đại ngày nay đòi hỏi con người Việt Nam mới phải là con người vừa
cách mạng vừa khoa học, vừa có tinh thần làm chủ, vừa có năng lực làm chủ.
Con người ấy kế thừa và không ngừng nâng cao những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và của Đảng, phải thường xuyên đổi mới kiến thức văn hoá, nâng cao
trình độ kỹ thuật và công nghệ, có thể lực mạnh khoẻ, tâm hồn trong sáng, trí tuệ
và tài năng ngày càng được phát huy, có tầm hiểu biết rộng lớn về chính trị, tư
tưởng, về kinh tế và xã hội. Song ở đây cần phải nhìn thẳng vào sự thật. Bên
cạnh bản chất tốt đẹp và những tiến bộ lớn về nhiều mặt, con người Việt Nam
hiện nay vẫn còn có những hạn chế và thói quen do nền sản xuất nhỏ lâu đời để
19


lại, những ảnh hưởng của cách làm ăn tản mạn, bảo thủ trì trệ, thiếu đầu óc tổ
chức. Trong những năm gần đây, các nhân tố tiêu cực trong xã hội đang làm xói
mòn phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam mà Đảng đã dầy công vun đắp.
Trong một bộ phận thế hệ thanh niên ngày nay, đang xuất hiện những hiện
tượng thoái hoá về tinh thần và thể lực rất đáng lo ngại.
3.2 Về măt thực tiễn
Một nhiệm vụ cực kỳ to lớn và nặng nề của Đảng và Nhà nước là phải
chăm lo giáo dục và đào tạo con người Việt Nam, làm cho mỗi người đều trở
nên những con người mới XHCN có đầy đủ phẩm chất và tài năng để đảm nhận

thông, tuy đang còn ở trên ghế nhà trường, nhưng vẫn là tiềm lực hùng hậu của
cách mạng khoa học - kỹ thuật, là những người làm chủ tương lai của đất nước.
Bởi vậy, việc tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng khoa học và kỹ
thuật một cách cân đối, đồng bộ, có chất lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược
phát triển chung, với các hướng khoa học, kỹ thuật và kinh tế ưu tiên trong từng
giai đoạn là một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn. Một mặt, phải tiếp tục đào tạo
tốt đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiên cứu khoa học, cán bộ đầu ngành và
liên ngành (cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật); đặc
biệt chú trọng đào tạo các kỹ sư thực hành, kỹ sư thiết kế, kỹ sư công nghệ có
trình độ cũng như các cán bộ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý khoa học
và kỹ thuật có tài năng. Mặt khác phải đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo đội ngũ
công nhân kỹ thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ nông dân lao động tiên tiến và
có kỹ thuật; có chính sách để sử dụng tốt hơn, chăm lo đầy đủ hơn đến đời sống
vật chất và tinh thần của đội ngũ này.
Khoa học là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, tinh thần chủ động và sức
mạnh sáng tạo của quần chúng, tiềm lực tinh thần và trí tuệ, trình độ làm chủ kỹ
thuật và công nghệ, năng lực tổ chức và kỹ năng thực hành của hàng triệu người
- từ những người lãnh đạo và quản lý cấp cao của Đảng và Nhà nước đến mỗi
đảng viên, cán bộ, công nhân, nông dân và trí thức XHCN là nền tảng, là động
lực và là nguồn dự trữ chủ yếu để thực hiện chiến lược ổn định và đẩy nhanh sự
phát triển kinh tế và xã hội, thực hiện công nghiệp hoá XHCN và xây dựng
thành công CNXH ở nước ta.
21


Sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta ngày càng phát triển. Sự nghiệp ấy
đặt ra những đòi hỏi ngày càng cao đối với nhân dân lao động, đối với mỗi con
người Việt Nam. Vì vậy, con người Việt Nam mới phải tích cực và chủ động
vươn lên, cải tiến và phát triển không ngừng lối suy nghĩ cũng như cách làm
việc: Đổi mới tư duy, đôÃi mới phong cách công tác, xây dựng nếp sống mới.

những nhu cầu mới của cuộc sống, phát hiện những quy luật mới, những khả
năng mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Từ đó, mà hướng mọi hoạt động
khoa học vào những cái mới, tạo điều kiện cho những mầm mống mới nảy sinh
và phát triển. Cho nên, những lề thói bảo thủ, an phận là kẻ thù của khoa học.
Tư tưởng tiến công thuộc về bản chất của tư duy khoa học.
Tri thức khoa học bao gồm những giá trị tri thức không những của dân tộc
ta mà của cả loài người tiến bộ. Hơn nữa, trong điều kiện về khoa học cũng như
về kỹ thuật và công nghệ, nước ta còn ở trong tình trạng trì trệ và lạc hậu, thì
chúng ta càng phải biết coi trọng và tiếp thu những thành tựu khoa học và tiến
bộ kỹ thuật của thế giới. Cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đang phát triển với
nhịp độ cao. Tuy duy khoa học của chúng ta, phải nhìn lên phía trước, nhanh
chóng tiếp thu những phát minh của thời đại.
Tư duy mới, phong cách mới. Khi nói đến phong cách công tác, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thường nói đến tinh thần cách mạng Nga
và đầu óc thực tế Mỹ. Trải qua lịch sử lâu đời, con người Việt Nam đã tự rèn
luyện lấy một phong cách sống và làm việc đầy tinh thần tiến thủ và chứa đựng
khả năng hành động thực tiễn lớn. Hiện nay, trong tình hình mới, để xây dựng
xã hội mới, nền kinh tế mới, con người mới Việt Nam cần có tiếp tục sự đổi mới
về phong cách.
Chúng ta đã từng nói nhiều đến sự cần thiết phải đổi mới phong cách làm
việc, tác phong công tác. Nhưng cũng từ lâu đã tồn tại dai dẳng một tác phong
cực kỳ tiêu cực, đó là tác phong nói mà không làm. Chúng ta thử điểm lại những
nghị quyết hay quyết định từ hơn một thập kỷ lại đây. Biết bao vấn đề chúng ta
đã đề ra như là những yêu cầu cấp bách, nghị quyết sau tiếp theo nghị quyết
trước, mà cuối cùng, việc tổ chức thực hiện vẫn không đưa lại hiệu quả gì hoặc
chỉ đưa lại hiệu quả không đáng kể. Nhiệm vụ đề ra càng cấp thiết thì tổ chức
23


thực hiện càng chậm chạp. Do vậy, nói đến tác phong công tác, thì trước hết, phải


"Sống, học tập và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại". Sống giản dị, lành mạnh;
cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư.
Khoa học là bản chất của sự vật. Ngay trong cuộc sống hàng ngày, người
cán bộ khoa học phải biết tôn trọng thực chất; tránh ba hoa, hình thức, phô
trương; phải cách mạng, khoa học, trung thực, đoàn kết. Luôn luôn đoàn kết và
hợp tác, tạo điều kiện cho mọi tài năng phát triển, nhất là đối với các cán bộ
khoa học trẻ. Biết tập hợp lực lượng và hành động thống nhất vì sự nghiệp
chung, vì lợi ích chung. Đồng thời kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong hoạt động khoa học và kỹ thuật. Tổ chức
công việc một cách khoa học, làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và
hiệu quả cao. Hăng say học tập và nghiên cứu, hăng say ứng dụng và triển khai
vào thực tiễn cuộc sống. "Học, học nữa, học mãi !". Học để hiểu biết và hiểu
biết là để hành động. Hành động có lý tưởng và mục đích rõ ràng: "Vì độc lập tự
do, vì CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân".

25



Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status