BÀI THU HOẠCH LỚP BỒI DƯỠNG NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG - Pdf 42

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG TP HÀ NỘI
ĐẢNG BỘ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG
Họ và tên:

Nguyễn Quốc Hiếu

Ngày sinh:

13/02/1996

Quê quán:
Đơn vị công tác:

Hà Nội
Khoa Luật - ĐHQGHN


Câu 2: Tính tất yếu nội dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh
Là sinh viên của lớp chất lượng cao K59 – Khoa Luật – Đại học Quốc
gia Hà Nội, tôi thấy vô cùng vinh dự và tự hào vì được tham gia lớp học bồi
dưỡng Đảng viên do Đảng bộ ĐHQGHN tổ chức. Qua khóa học, tôi có them
nhận thức sâu sắc về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong lịch sử và
hiện tại; về lãnh tụ Hồ Chí Minh – Người đã cùng Đảng lãnh đạo, chèo lái
con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách đi đến bến
bờ thắng lợi; đưa Việt Nam tứ một dân tộc bị áp bức bởi chế độ phong kiến

Như vậy chúng ta có thể thấy được sự cần thiết của việc học tập và làm
theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có vai trò rất quan trọng trong
công cuộc phát triển của đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực. Được thể hiện cụ
thể như sau:
Trong thời kỳ đổi mới với bao khó khăn và thử thách từ nhiệm vụ kinh
tế – xã hội, an ninh và quốc phòng. Thực tiễn kinh tế – xã hội và những tình
huống chiến lược cũng như những nhiệm vụ cụ thể nhiều khi chúng ta tỏ ra bế
tắc chỉ vì việc học. Bế tắc không phải chúng ta không chú ý đến việc học tập
đối với nền giáo dục quốc dân và đối với bộ máy nhân lực của Chính phủ
chúng ta cũng đã làm được rất nhiều việc.
Nếu không, làm sao chúng ta đứng vững cho đến ngày nay với một nhà
nước độc lập tự chủ, kinh tế phát triển đều đặn, đời sống nhân dân không
ngừng được cải thiện. Vì vậy, xin được miễn nói những gì là thành tựu. Chỉ
xin nói thêm về những thực trạng cần có đổi mới trong việc học tập cho cán
bộ và công chức từ giáo huấn Hồ Chí Minh:
Chưa có chương trình cụ thể để gắn việc học với điều kiện của thực
tiễn. Làm cái gì thì học cái đó trước, cái đó nhiều, cái đó suốt đời. Đưa người
đã học vào bộ máy công chức là chính, lấy người chưa học là phụ. Đưa thực
tiễn vào tất cả các khâu: phân bổ thời gian; bố trí con người “dạy thực tiễn”
(như dạy sinh viên hành chính là trưởng phó phòng, chủ tịch, phó chủ tịch,
dạy tiếp dân…). Tiếp cận cách thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
trong nước với thế giới để tránh tình trạng bất cập có thể có: một bên là Việt
Nam và một bên là thế giới còn lại!

3

3


Thiết nghĩ một trong những điều mà giáo huấn Hồ Chí Minh trở



nhân sống trong cộng đồng. Đạo đức đòi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các
hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xã hội và lương tâm.
Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn
mực khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận
xã hội và lương tâm đòi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đã trở
thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hình thái ý thức khác, các
hiện tượng xã hội khác và làm thành cái không thể thay thế của đạo đức. Về
mục đích điều chỉnh, đạo đức bảo đảm sự tồn tại và phát triển xã hội bằng tạo
nên quan hệ lợi ích cộng đồng và cá nhân theo nguyên tắc hài hòa lợi ích cộng
đồng và cá nhân, thậm chí khi cần thiết phải ưu tiên lợi ích cộng đồng. Về đối
tượng điều chỉnh, hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá
nhân với cộng đồng (gián tiếp) với cách thức điều chỉnh như: lựa chọn giá trị
đạo đức; xác định chương trình của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định
phương án cho hành vi bưỏi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi
bởi niềm tin, lý tưởng, tình cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi
dư luận xã hội. Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hình
thức chủ yếu: xã hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái
thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác; bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh
hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xã hội.
Về chức năng giáo dục, đạo đức hướng con người vươn lên “chân –
thiện – mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch
sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con
người đến mức ấy. Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xã hội. Hệ
thống ấy tác động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ
thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn
tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người. Xã hội có giai cấp
hình thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhân chịu sự tác động.
Ở đây, môi trường đạo đức: tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo

người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xã hội vừa mang tính tinh thần vừa mang
tính hành động hiện thực. Sự nhận thức của đạo đức có hai đặc điểm:
Thứ nhất, hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và
đa số trường hợp có sự hòa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức.
6

6


(Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có
khoảng cách về không gian và thời gian).
Thứ hai, nhận thức của đạo đức là quá trình vừa hướng ngoại (hướng ra
ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mình, chính chủ thể).
Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xã
hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ,
hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống…, những “cách thức và phương tiện” tạo ra
các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đã chuyển
hóa đạo đức của xã hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân
như là cái riêng. Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thân mình – chủ
thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trình tự đánh giá, tự thẩm
định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mình với những
chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể
hình thành phát triển thành các quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay
chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái
ác… Trong tự nhận thức, vai trò của dư luận xã hội và lương tâm là to lớn.
Dư luận xã hội là sự bình phẩm, đánh giá từ phía xã hội đối với chủ thể, còn
lương tâm là sự phê bình. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức
của mình – giá trị mà xã hội mong muốn. Từ nhận thức giúp chủ thể ý thức
được trách nhiệm của mình và sẵn sàng để ho thành trách nhiệm đó. Trong
cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ

hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành nhiều lĩnh vực đang trở
thành “quốc nạn” gây bức xúc cho nhân dân; (3) hành động cơ hội “chạy chọt”
vì lợi ích cá nhân khá phổ biến; (4) lời nói không đi đôi với việc làm, nói và làm
trái với nghị quyết của Đảng, nói nhiểu làm ít, phát ngôn tủy tiện, vô nguyên tắc;
(5) tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạo vô cảm trước những khó khăn bức xúc và yêu
cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân; (6) tình trạng suy thoái về đạo đức trong
quan hệ gia đình với quan hệ giữa cá nhân và xã hội, như gia trưởng vũ phu bất
hiếu; (7) đạo đức nghề nghiệp sa sút ngay cả trong lĩnh vực được xã hội tôn
vinh, hiện tượng mê tín dị đoan có chiều hướng lan rộng ảnh hưởng xấu tới
thuần phong mĩ tục và trật tự an toàn xã hôi. Nguyên nhân của tình trạng trên có
cả khách quan và chủ quan.

8

8


Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của cơ chế kinh tế thị
trường đặc biệt là khả năng kích thích lối sống thực dụng của cơ chế này. Sự
tác động của đạo đưc, lối sống tư sản hưởng thụ phương tây vào nước ta trong
điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và bùng nổ mạng thông tin
toàn cầu. các thế lực thù địch phản động đã chủ động khuyến khích lối sống
ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo và gia
đình họ coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “ diễn biến hòa bình”.
Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thực đầy đủ sâu sắc
vai trò nền tảng của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của
cơ chế kinh tế thị trường tới đạo đức xã hội trên thực tế chúng ta chưa coi
trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự tổ chứ, phối hợp cảu các ngành các
cấp. một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên và gia đình chưa nêu gương về
đạo đức và lối sống

vai trò chủ đạo trong suy nghĩ và hành động của các cấp lãnh đạo và toàn dân.
Như chúng ta đã biết, lúc sinh thời Bác Hồ của chúng ta đã khẳng định: Đạo
đức là gốc của cách mạng. Bác coi đạo đức của con người như gốc của cây,
như nguồn của sông. Người luôn nhấn mạnh vai trò quan trọng và tích cực
của đạo đức trong đời sống xã hội. Bởi vậy, học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo
đức, lối sống theo tấm gương Bác Hồ trong giai đoạn hiện nay là điều rất cần
thiết và quan trọng. Có thể liệt kê sơ qua những phẩm chất đạo đức cách
mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: (1) Trung với nước hiếu với dân là phải gắn
bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phải “tuyệt đối trung
thành với Đảng với nhân dân”; (2) Tinh thần dân chủ, tôn trọng tập thể, tôn
trọng quần chúng nhân dân, luôn luôn quan tâm đến mọi người, gắn bó với
nhân dân; yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình là giúp cho mỗi
người ngày càng tiến bộ tốt đẹp hơn, phải thực hiện phê bình, tự phê bình
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm; (3) cần kiệm
- phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác: biết lao
động cần cù, siêng năng và biết tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của nhân
dân của đất nước và của bản thân; (4) liêm chính - phẩm chất của người cán
bộ khi thi hành công vụ phải ngay thẳng, không tà, trong sạch, “luôn chí công
vô tư” là rất mực công bằng, không có lòng riêng, thiên tư, thiên vị. Đem lòng
chí công vô tư đối với người, đối với việc. Với những phẩm chất đạo đức kể
10

10


trên, chủ tịch Hồ Chí Minh xứng đáng là tấm gương sáng cho chúng ta noi
theo – Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: (1) Trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân
loại; (2) kiên định mục đích lý tưởng, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm,
khí phách vượt qua khó khăn thử thách; (3) kính trọng nhân dân, hết lòng, hết

bản thân tôi cũng rất tích cực tham gia vào các hoạt động của khoa đặc biệt là
các hoạt động phong trào sinh viên. trong quá trình học tập tại trường, Đoàn
Thanh niên – Hội Sinh viên Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội luôn tổ chức
các chương trình, hoạt động về tư tưởng tấm gương và đạo đức Hồ Chí Minh,
đơn cử như “Giải Bóng đá Khoa Luật – AOF 2015” với mục đích tạo tiền đề
cho sự phát triển phong trào tập luyện thể lực, nâng cao sức khoẻ cho sinh
viên theo tấm gương “rèn luyện thân thể của Bác Hồ: Có sức khỏe là có tất
cả” thu hút được hấu hết tất cả sinh viên toàn trường tham gia. Là một khoa
nhỏ với số lượng sinh viên không nhiều nên các phong trào đưa ra chưa được
toàn diện nhưng đã thu hút được số đông tham gia, các chủ đề luôn được đưa
ra về ca ngợi Đảng, Bác Hồ kính yêu. Các hoạt động không chỉ liên quan tới
phong trào sinh viên dưới sự chỉ đạo của Đảng Ủy khoa Luật, còn có sự tham
gia tích cực của các giảng viên, cán bộ giảng dạy trong khoa, gắn kết trong
phong trào toàn diện về văn hóa văn nghệ thể dục thể thao và tình cảm thầy
trò khoa Luật.
Bản thân là Chi hội trưởng Chi hội K59CLC, tôi cũng thường xuyên
đưa ra những buổi thảo luận ở tại lớp về Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
được tất cả thành viên trong chi đoàn tham gia, qua các bài hùng biện về
Người chúng tôi càng hiểu thêm về Bác về công lao to lớn, về tư tưởng bất hủ
của Người và với nguyện vọng là thế hệ đi sau chúng tôi sẽ cố gắng phát huy
tất cả những sở trưởng thế mạnh của mình sao cho hợp với chuẩn mực của
đạo đức của tư tưởng của người đã để lại. Tất cả thành viên trong lớp đều học
tập đạt kết quả cao, 100% học lực Khá trở lên và cố gắng phấn đấu để trở
thành những Đoàn viên tốt để đạt được vào chỉ tiêu học cảm tình Đảng của
khoa… Từ khi Đảng phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” toàn thể sinh viên khoa Luật nói riêng và sinh viên
Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung luôn có ý thức phấn đấu trong công tác
học tập, tu dưỡng và rèn luyện bản thân, và đã đạt được nhiều thành tích cao

12


Mỗi người chúng ta, đặc biệt là các Đoàn viên ưu tú, cánh tay phải đắc
lực của Đảng, phải cố gắng cùng chung tay góp sức vì một Việt Nam bừng
sáng trên trường quốc tế, cùng học tập thi đua, nỗ lực tất cả, chúng ta có đầy
đủ điều kiện để đi lên, chúng ta phải hứa với lòng mình là sẽ thành công. Dù
có bao gian nguy khó khăn phía trước thì cũng phải quyết chí tiến lên, quyết
không lùi bước!
“Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
13

13


Lòng ta bát ngát ánh bình minh
Súng nổ tung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam như máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”

Câu 1: Từ vai trò của Đảng trong lịch sử và hiện tại, theo đồng chí
cần làm gì để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời gian tới?
I.

Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò to lớn trong lịch sử và hiện tại
Mùa xuân năm 1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp
(từ ngày 03 đến ngày 7/2/1930) ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung
Quốc). Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng,
An Nam Cộng sản Đảng dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc - thay

mạng đều do một giai cấp cách mạng lãnh đạo, tuy nhiên ở Việt Nam do tính
chất của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng đó đều thuộc phạm trù cách mạng vô
sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh dấu bước
ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng
của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp Chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác - con đường cách mạng vô sản”. Để thực hiện
được mục tiêu đó, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước hết phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”. Đảng
Cộng sản Việt Nam có sứ mệnh lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng một lúc
vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp cách
mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm sứ mệnh lịch sử của
Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đáp ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
15

15


tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản,
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Việt Nam
được độc lập, giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản; mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân.
Trải qua 85 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước

phù hợp với nội dung và xu thế cách mạng của thời đại mới được mở ra từ
Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (năm 1917) và chỉ có đường lối độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm độc lập tự do thật sự cho
dân tộc. Đối với nước ta, không còn con đường nào khác để có độc lập dân
tộc thật sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Cần nhấn mạnh rằng, đây là sự
lựa chọn của lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của
Đảng ta. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong suốt 85 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là:


Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và khai sinh ra Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam) mở ra kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân



tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ
quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa
cả nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ



và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, từng bước đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã




thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của
sự nghiệp đổi mới.

Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong
toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta đã xây đắp nên những truyền thống cực kỳ quý báu:


Đoàn kết, truyền thống cực kỳ quý báu và là bài học lớn của cách



mạng nước ta.
Quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân đã trở thành nguồn sức



mạnh và truyền thống của cách mạng Việt Nam.
Truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất của nhiều thế hệ đảng
viên cộng sản và quần chúng nhân dân, họ chấp nhận mọi gian khổ,

18

Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu của Đảng, đấu tranh cho lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là sứ mệnh của
Đảng.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với giai
cấp và dân tộc là vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc, bởi vậy, cần kế thừa
và phát triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh
giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý
19

19


luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, không
ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
nói riêng trong thời kỳ mới.
II.

Giải pháp để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng
Bài học trên thế giới cho thấy nếu các đảng cầm quyền không có được
những chính sách thích hợp khiến kinh tế đất nước khó khăn, thậm chí suy
thoái, là điều nguy hiểm không kém tham nhũng, sẽ khiến đảng có thể bị mất
tín nhiệm về năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức của đảng và do đó mất
quyền lãnh đạo. Điều này đã và đang xảy ra ở nhiều nước xung quanh chúng
ta và là bài học xương máu cho nhiều đảng cầm quyền và nhiều nhà lãnh đạo
đất nước.
Từ kinh nghiệm của nhiều đảng cầm quyền trên thế giới thuộc các chế
độ chính trị xã hội khác nhau, từ kinh nghiệm thành công cũng như có lúc

Nhìn từ góc độ của đảng cầm quyền, có thể nhấn mạnh thêm, Đảng
phải nắm chắc 3 lĩnh vực cực kỳ quan trọng, đúng chức năng, nhiệm vụ của
một đảng cầm quyền là:


Giám sát, kiểm soát được các chức danh lãnh đạo hệ thống
chính trị, lãnh đạo nhà nước do Đảng giới thiệu, bố trí, đặc biệt là
các chức danh cao nhất của bộ máy chính quyền các cấp (ở tầm
quốc gia là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ
trưởng; ở địa phương là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân), bởi vì đây chính là các chức danh có tác động
trực tiếp tới chính sách, pháp luật và tổ chức thực hiện chính



sách, pháp luật của Nhà nước.
Kiểm soát được quy trình hoạch định và nội dung của các chính
sách, pháp luật, chủ trương mang tính chiến lược của Nhà nước
trên mọi mặt; kiểm soát được sự phân bổ các nguồn lực của đất
nước, bao hàm cả kiểm soát được chi tiêu tài chính của Nhà



nước.
Tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương,
chính sách của Đảng và người của Đảng đang đảm nhiệm các
chức vụ nhà nước và hệ thống chính trị nói chung.

21


quyền cần thiết trong chủ động, sáng tạo lãnh đạo, điều hành công tác, tránh

22

22


sự trông chờ, ỷ lại vào tập thể. Không nhất thiết các bộ trưởng phải là Ủy viên
Trung ương hay đại biểu Quốc hội.
Ở các địa phương, Bí thư tỉnh, thành ủy phải là Chủ tịch Hội đồng nhân
dân để có đủ quyền hạn và thực hiện đúng chức năng lãnh đạo cơ quan đại
biểu nhân dân giám sát, kiểm soát đối với người đứng đầu cơ quan hành pháp
ở địa phương. Các chủ nhiệm ủy ban của Hội đồng cũng phải là các thành
viên của Ban lãnh đạo cao nhất của cấp ủy Đảng.
Bằng việc bố trí các nhân sự cấp cao của Đảng vào các chức vụ cao
nhất của cơ quan đại diện của dân, Đảng sẽ giám sát, kiểm soát được con
người, kiểm soát được việc phân bổ các nguồn lực và tài chính của đất nước,
địa phương. Cấp ủy Đảng không chỉ đề ra chủ trương chung mà phải nắm
được chính xác các chương trình, dự án và việc phân bổ kinh phí, tài chính
cho các dự án, chương trình trong phạm vi từng địa phương. Kiểm soát về tài
chính hiện nay là điều Đảng còn yếu. Nếu làm tốt điều này sẽ làm tăng quyền
lực của Đảng trong việc nắm bộ máy nhà nước và lãnh đạo bộ máy nhà nước.
Phòng, chống tham nhũng hiệu quả là bảo vệ uy tín của đảng cầm
quyền. Bất cứ đảng cầm quyền nào để cho tham nhũng phát triển đều bị mất
uy tín, dẫn đến mất quyền lãnh đạo. Do vậy điều quan trọng thứ hai hiện nay
là Đảng phải tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, song trong giai đoạn hiện nay phải tạo được
bước đột phá, có chuyển biến mạnh. Có thể coi chống tham nhũng là nhiệm
vụ “chuyên chính” trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường. Đồng thời với
việc ban hành và thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật cần thiết như

nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài để bảo đảm cho các thế hệ của Đảng
kế tiếp nhau lãnh đạo đất nước. Đóng góp vào công tác cán bộ của Đảng, các
trường Đảng, trường cán bộ phải cấp bách và thường xuyên đổi mới, nâng cao
chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lên một trình độ mới,
cao hơn, hiện đại hơn. Đến lượt mình, bản thân đội ngũ cán bộ của hệ thống
trường Đảng cũng cần phải được thường xuyên, liên tục bồi dưỡng, rèn luyện,
đổi mới và trưởng thành không chỉ trên bục giảng mà còn trong thực tiễn trực
tiếp lãnh đạo, quản lý ở các cấp.

24

24




Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status