Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) (2000-2006). - Pdf 52

Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói sự ra đời của nghị định 100CP là bước ngoặt quan trọng
đánh dấu sự chấm dứt của cơ chế độc quyền nhà nước,tạo ra môi trường
pháp lý cho việc phát triển một thị trường bảo hiểm mang tính cạnh tranh.
Bên cạnh đó với sự phát triển ổn định của nền kinh tế cùng với các chính
sách đầu tư trong và nước ngoài tạo ra một lượng tích lũy đáng kể về tài sản
đã mang lại những cơ hội không nhỏ cho sự phát triển của ngành bảo hiểm
Việt Nam nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng. Bảo hiểm hàng hải là
một trong những lĩnh vực bảo hiểm ra đời khá sớm không những đáp ứng
nhu cầu đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngành vận tải biển mà còn thúc
đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới.
Cùng với sự phát triển đó thì tái bảo hiểm ra đời như một tất yếu
khách quan nhằm đảm bảo khả năng tài chính cho các công ty bảo hiểm.
Mặc dù mới được triển khai không lâu nhưng cho đến nay nghiệp vụ bảo
hiểm và tái bảo hiểm hàng hải đã có những bước đi dài, đóng góp không nhỏ
vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Phòng Tái bảo hiểm Hàng hải của
Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam,với những kiến thức
đã được thầy cô truyền đạt và được sự giúp đỡ của các anh chị phòng tái bảo
hiểm hàng hải em đã hoàn thành luận văn với đề tài:
“Tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu
tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE)
(2000-2006)”.
Nội dung luận văn gồm 3 chương chính:
Chương I: Tổng quan về tái bảo hiểm và tái bảo hiểm vật chất thân tàu
Chương II: Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất
thân tàu tại VINARE (2000-2006)
Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
nghiệp vụ tái bảo hiểm vật chất thân tàu tại VINARE.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A

bảo hiểm cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
22
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
1.2. Tác dụng cơ bản của tái bảo hiểm
Tái bảo hiểm có tác dụng sau:
• Phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc,
đặc biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích
lũy rủi ro;
• Tăng cường khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối
với những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó;
• Góp phần ổn định thu chi của ngân sách Nhà nước và tăng thu ngoại
tệ cho Nhà nước;
• Giúp các công ty bảo hiểm nhỏ,mới thành lập ổn định và phát triển
nhờ tư vấn về nghiệp vụ từ các công ty tái bảo hiểm;
• Giúp các công ty bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột biến của rủi
ro - khả năng sai lệch giữa thực tế và dự đoán mà người bảo hiểm có
được nhờ số liệu thống kê từ quá khứ;
• Góp phần thúc đẩy,phát triển quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước
bởi tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế;
• Gián tiếp bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm bằng sự ổn
định tài chính của công ty bảo hiểm gốc;
• Đảm bảo đời sống cho cán bộ nhân viên làm việc trong các công ty
bảo hiểm gốc, góp phần giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động
xã hội (tạo chỗ làm tại các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, công ty
môi giới tái bảo hiểm, ...);
• Tạo điều kiện cho công ty bảo hiểm khi muốn rút lui khỏi thị trường
nào đó (khi nhận thấy không còn đủ khả năng để thực hiện một nghiệp
vụ bảo hiểm nào đó hoặc khi muốn tập trung vào các nghiệp vụ khác
mà công ty có thế mạnh..., công ty bảo hiểm này có thể nhượng tái

Trong giai đoạn này,những thành tựu khoa học kỹ thuật đã được
ứng dụng vào sản xuất làm nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa đã có
những bước tiến nhảy vọt,quan hệ giao lưu hàng hóa giữa các nước ngày
càng được mở rộng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho thị trường tái bảo
hiểm trưởng thành và phát triển. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm vừa hoạt
động bảo hiểm gốc vừa hoạt động tái bảo hiểm tạo ra những hạn chế nhất
định, đặt ra yêu cầu cần phải có công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp. Năm
1843, công ty tái bảo hiểm nội bộ đầu tiên ra đời là Weceler Re (Đức). Tuy
nhiên, nó chỉ là công ty con của một công ty bảo hiểm địa phương, chủ yếu
nhận các phần dôi của công ty mẹ.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
44
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm

Năm 1846 công ty tái bảo hiểm độc lập đầu tiên được thành lập tại
Đức mang tên Cologe Re. Sau đó là sự ra đời hàng loạt của các công ty tái
bảo hiểm chuyên nghiệp có tên tuổi như:
- Swiss Re – công ty tái bảo hiểm đầu tiên của Thụy Sỹ, thành
lập năm 1863;
- London Gurantee Reinsurance Co.Ltd (Luân Đôn) năm 1869;
- Munich Re (Đức), thành lập năm 1880.

Ở Anh, công ty tái bảo hiểm đầu tiên là The Reinsurance Company
Ltd, thành lập năm 1867 và vào thời gian đó, trên thế giới mới chỉ tồn tại 10
công ty tái bảo hiểm. Tuy nhiên, công ty này đã đóng cửa vì phá sản vào
năm 1871. Một số công ty tái bảo hiểm khác đã được thành lập nhưng không
tồn tại được lâu. Năm 1907, công ty tái bảo hiểm Vương quốc Anh thành
lập,mang tên Mercantile & General Reinsurance. Một năm sau, năm 1908,
công ty tái bảo hiểm Bristish & European ra đời.
Ở Mỹ,công ty tái bảo hiểm đầu tiên được thành lập năm 1912 với

đối ngoại là bảo hiểm hàng hóa nhập khẩu và bảo hiểm thân
tàu thủy;
- Năm 1970-1980 các tập đoàn tái bảo hiểm vùng ra đời như:
Tập đoàn tái bảo hiểm Châu Phi, tập đoàn tái bảo hiểm Châu
Á, tập đoàn tái bảo hiểm Asean. Các tập đoàn này vận hành
dựa trên cơ sở nhượng bắt buộc hay tự nguyện với nhau giữa
các thành viên.
d. Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Năm 1990 sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN tạo tiền để cho
thị trường tái bảo hiểm quốc tế được mở rộng và phát triển. Mối quan hệ
giữa các nước ngày càng được củng cố đánh dấu giai đoạn phát triển cao của
thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm. Tuy nhiên những năm đầu của thế kỷ
XX thị trường tái bảo hiểm quốc tế phải đối mặt lớn với thảm họa và rủi ro
do thiên nhiên và con người gây ra.
Năm 2001, với thảm họa khủng bố giáng xuống nước Mỹ ngày 11-
9, các công ty bảo hiểm,tái bảo hiểm phải gánh chịu những khoản tổn thất
nặng nề chưa từng có với tổng tổn thất được bảo hiểm lên tới 40,2 tỷ USD,
dẫn tới sự phá sản tụt hạng của một số công ty tái bảo hiểm hàng đầu thế
giới, và đến nay với hàng loạt tổn thất do thiên tai gây ra đặc biệt là tổn thất
nặng nề do sóng thần vào thời điểm cuối năm 2004 tại các nước Nam Á làm
cho tình hình thị trường tái bảo hiểm quốc tế trở nên phức tạp.
3. CÁC HÌNH THỨC TÁI BẢO HIỂM
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
66
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
3.1. Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Theo hình
thức này, công ty nhượng toàn quyền lựa chọn toàn bộ hay một số rủi ro cần
phải tái đi và công ty nhận (nhà tái bảo hiểm) có quyền nhận hay từ chối
toàn bộ hay một số rủi ro đó.

77
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
+ Giúp cho công ty nhượng có thể chủ động trong việc chấp
nhận bảo hiểm phục vụ nhu cầu của người được bảo hiểm về những loại rủi
ro mà có thể không được chấp nhận trong các hợp đồng bảo hiểm bắt buộc
truyền thống của mình, chẳng hạn như: rủi ro động đất, ngập lụt, đình công,
bạo loạn, chiến tranh hoặc những rủi ro tương tự khác;
+ Tạo điều kiện cho công ty nhượng cải thiện sự thăng bằng
của các hình thức tái bảo hiểm bắt buộc, cải thiện vận may rủi trong việc đạt
được những lợi ích tối đa theo các điều kiện quy định trong các hợp đồng tái
bảo hiểm đó của họ (ví dụ: điều kiện về chia lãi, thủ tục phí tái bảo hiểm
theo thang lũy tiến, thủ tục phí tái bảo hiểm theo lãi,...).

Nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ, chi tiết về nghiệp vụ
bảo hiểm gốc dẫn đến có thể bị tiết lộ thông tin có lợi cho đối thủ cạnh tranh
trong thị trường bảo hiểm gốc.
+ Không đảm bảo thời gian và sự chắc chắn trong việc phân tán
rủi ro tái bảo hiểm do đó có thể sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc không
có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn, hay ít nhất cũng làm
cho công ty nhượng mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo hiểm.;
+ Chi phí hành chính,thủ tục giấy tờ tốn kém do đó ảnh hưởng
đến lợi nhuận của hợp đồng;
+ Thường xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo
hiểm trước khi quyết định kí kết hợp đồng bảo hiểm gốc với khách hàng mà
trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ hợp
đồng đã kí;
+ Trong nhiều trường hợp hình thức tái bảo hiểm này chỉ được
thực hiện với mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc thủ tục phí ít hơn khi khả
năng nhận của thị trường tái bảo hiểm quốc tế đã đạt gần tới mức tối đa,


+ Đối với những nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai,các nhà tái
bảo hiểm không lường hết được mức độ rủi ro cũng như xác xuất rủi ro vì
vậy việc kí kết hợp đồng ít nhiều còn mang tính mạo hiểm;
+ Vì mọi rủi ro đều phải tái đi cho nên, đứng về phía công ty
nhượng, những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem đi tái
trong khi khả năng tài chính của họ vẫn có thể đảm đương được.
3.3. Tái bảo hiểm kết hợp tùy ý lựa chọn - bắt buộc
Đây là hình thức tái bảo hiểm mà công ty nhượng không bắt buộc
phải nhượng tất cả các dịch vụ mà mình nhận bảo hiểm nhưng công ty nhận
bắt buộc phải nhận các dịch vụ mà công ty nhượng đưa vào thỏa thuận này
với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù hợp với nội dung điều khoản đã
quy ước của hợp đồng tái bảo hiểm thỏa thuận.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
99
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
- Đối với nhà nhận tái: So với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa
chọn, nhà nhận tái bảo hiểm bất lợi hơn vì không có quyền từ chối những rủi
ro mà họ không muốn nhận. Công ty nhận tái bảo hiểm có điều kiện thu
nhập nguồn phí tái bảo hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình
thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Ở đây, công ty nhượng không được lợi
dụng hình thức này để lựa chọn tái đi những rủi ro có khả năng xảy ra tổn
thất lớn với mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để đề phòng
trường hợp này xảy ra, công ty nhận phải nắm vững ý đồ của công ty
nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhượng đem tái bảo hiểm và
thường xuyên phải canh chừng diễn biến của thỏa ước mà mình đã kí kết. Sử
dụng hình thức tái bảo hiểm này, công ty nhượng có điều kiện để đem chào
tái bảo hiểm từng phần trách nhiệm thặng dư của khả năng tự giữ lại của
mình cho một hay một số ít các nhà tái bảo hiểm mà họ lựa chọn, thay cho
việc phải đem tất chia tất cả các phần thặng dư cho các nhà tái bảo hiểm nếu

Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phương pháp tái bảo
hiểm mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối
với mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm được phân bổ theo tỷ lệ tham gia của
mỗi bên trên cơ sở số tiền bảo hiểm. Vì lẽ đó các dịch vụ tái bảo hiểm theo
số tiền bảo hiểm còn được gọi là tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia làm hai dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành;
+ Tái bảo hiểm mức dôi.

4.1.1. Tái bảo hiểm số thành

Theo phương thức này, công ty nhượng giữ lại cho mình một tỷ lệ
nhất định so với số tiền bảo hiểm, phần còn lại tái đi. Vì vậy phí bảo hiểm và
số tiền bồi thường cũng được phân bổ giữa công ty nhượng và nhà tái bảo
hiểm theo tỷ lệ tương ứng.
Ưu điểm:

+ Tính toán đơn giản, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách quản
lý đơn giản, ít tốn kém;
+ Đối với nhà tái bảo hiểm, dạng tái bảo hiểm này có tính cân
đối và dễ chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi, có khả năng
phân tán rủi ro tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có
điều kiện tham gia vào mọi rủi ro mà công ty nhượng nhận bảo hiểm, đồng
thời công ty nhượng có thể yên tâm nhận mọi rủi ro có giá trị nằm trong
phạm vi hạn mức khống chế tối đa đã quy ước vì mọi rủi ro này đều được
chia sẻ cho nhà tái bảo hiểm cùng hưởng và cùng chịu với công ty nhượng.
Điều này đảm bảo cân đối thu chi cho cả hai bên: công ty nhượng và nhà
nhận tái bảo hiểm.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm của dạng này cao nhất,ngoài ra các
điều kiện về phí tạm giữ cũng có tỷ lệ cao, nhờ đó công ty nhượng có điều

với các hợp đồng bảo hiểm về rủi ro thiên tai;
+ Đối với các loại nghiệp vụ mà phạm vi tác động và quy mô
của tổn thất không chắc chắn, mặc dù các hợp đồng bảo hiểm loại này có thể
có giới hạn trách nhiệm.
Tái bảo hiểm số thành thường được sử dụng trong bảo hiểm trách
nhiệm dân sự, xe ô tô, mưa đá, giông bão, bảo hiểm vận chuyển hàng hóa và
thường kết hợp với tái bảo hiểm mức dôi.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1212
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
4.1.2. Tái bảo hiểm mức dôi
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xưa và phổ
biến nhất. Trong tái bảo hiểm mức dôi, công ty nhượng ấn định mức giữ lại
là một số tuyệt đối,số vượt quá tái đi. Với phương pháp này,trách nhiệm của
người nhận được xác định theo lớp là bội số của mức giữ lại. Phí bảo hiểm
và số tiền bồi thường được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng với trách nhiệm
giữa công ty nhượng và nhà nhận tái.
Ưu điểm:
Phương pháp tái bảo hiểm này giúp khai thác hết khả năng của
công ty nhượng do chỉ tái đi những rủi ro vượt quá mức giữ lại, đảm bảo lợi
ích kinh tế cao hơn tái bảo hiểm số thành. Đồng thời phương pháp này còn
giúp công ty nhượng có điều kiện giữ lại một khối lượng kim ngạch bảo
hiểm lớn và do đó có mức phí thu nhập lớn không cần phải tái bảo hiểm.
Nhược điểm:
Việc tính toán lại phức tạp hơn, chi phí tốn kém hơn,sử dụng nhiều
nhân lực (nhất là đối với những nước không có điều kiện áp dụng máy tính
điện tử) và có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi
nhiều vào những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng.
Tái bảo hiểm mức dôi thông thường được áp dụng khi khối lượng
dịch vụ gồm nhiều rủi ro có những số tiền rất chênh lệch được bảo hiểm: tái

Nhược điểm:
Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn hợp đồng số thành
thuần túy, thủ tục phí tái bảo hiểm thu được từ hợp đồng mức dôi thấp hơn
so với thủ tục phí đưa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng giữa phí và trách
nhiệm thấp).
4.2. Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường

Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường là một hình thức tái bảo hiểm
trong đó công ty nhượng ấn định một giới hạn bồi thường bằng một số tiền
mà họ có thể tự gánh chịu cho mỗi tổn thất thuộc trách nhiệm của mình
(điểm tự bồi thường hoặc mức tự bồi thường), phần tổn thất vượt quá hạn
mức đó được chuyển giao cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu (giới hạn trách
nhiệm bồi thường của nhà tái bảo hiểm).
Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường có những đặc điểm sau:

Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1414
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
+ Trách nhiệm của công ty nhượng và nhà tái bảo hiểm đối với
tổn thất không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng như về bồi thường.
Vì thế hình thức tái bảo hiểm này còn được gọi là là tái bảo hiểm phi tỷ lệ;
+ Số tiền bồi thường tổn thất là tiêu chuẩn cơ bản để phân định
trách nhiệm giữa các bên;
+ Công ty nhượng phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những
tổn thất bằng hoặc dưới điểm tự bồi thường;
+ Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thường cho phần tổn thất chênh lệch
của những tổn thất vượt quá điểm tự bồi thường của công ty nhượng cho tới
một hạn mức tối đa đã có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng tái bảo
hiểm,hạn mức này được gọi là “ hạn mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm”.
Ưu điểm

4.2.1. Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ
Dạng tái bảo hiểm này bao gồm hai loại: loại đảm bảo nghiệp vụ
không hạn mức và loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố.
a. Loại đảm bảo nghiệp vụ không hạn mức
Là loại đảm bảo nghiệp vụ áp dụng cho từng đơn vị rủi ro gốc và
không hạn chế tổng số tiền bồi thường trong trường hợp có nhiều tổn thất
xảy ra từ một sự cố. Trong loại tái bảo hiểm này, nhà tái bảo hiểm bồi
thường không hạn định số vụ và tổng số tiền của các vụ tổn thất xảy ra dù là
một tổn thất riêng biệt hay là một sự cố tổng hợp. Mục đích của việc thu xếp
tái bảo hiểm theo dạng này là để giảm bớt hay thay thế cho các dạng tái bảo
hiểm theo tỷ lệ thông thường.
b. Loại đảm bảo nghiệp vụ có hạn mức từng sự cố
Là loại “đảm bảo nghiệp vụ” bổ sung cho loại trên,trong đó mức
bồi thường của nhà tái bảo hiểm ngoài việc phải chịu trách nhiệm đối với
những tổn thất tính riêng từng đơn vị rủi ro vượt quá điểm vượt mức bồi
thường, nó còn được khống chế ở một mức tối đa ấn định trong trường hợp
nhiều rủi ro xảy ra trong cùng một sự cố có tổng số tiền bồi thường quá lớn.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ thường
được sử dụng trong các loại tái bảo hiểm về tài sản (vật chất). Các loại
nghiệp vụ về trách nhiệm ít áp dụng dạng này vì thông thường bảo hiểm về
trách nhiệm ít bị tổn thất do thảm họa khốc liệt gây nên. Ngoài ra trong bảo
hiểm hàng hải,nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa và bảo hiểm hàng và tàu kết
hợp thường áp dụng dạng này.
4.2.2.Tái bảo hiểm vượt quá tỷ lệ bồi thường
Là dạng tái bảo hiểm phi tỷ lệ mà nhà tái bảo hiểm chỉ có trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp khi kết quả toàn bộ nghiệp vụ của công
ty nhượng có một tỷ lệ bồi thường vượt quá một tỷ lệ hoặc một mức tiền
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1616
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm

số phí thu nhập bảo hiểm.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1717
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Việc tính toán thủ tục phí tái bảo hiểm không có một quy tắc cứng
nhắc nào mà nó phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên tham gia trong
hợp đồng tái bảo hiểm. Tuy nhiên, khi xác định một tỷ lệ thủ tục phí cần
xem xét kỹ một số yếu tố quan trọng:
+ Thể loại tái bảo hiểm và phương thức chảo tái bảo hiểm ( số
thành, mức dôi...);
+ Phí tái bảo hiểm trên cơ sở phí toàn phần hay có khấu trừ (phí
gộp, phí thuận, môi giới...);
+ Có quy định các điều khoản thỏa thuận giảm giá đặc biệt cho
người được bảo hiểm trong phí bảo hiểm gốc không;
+ Chi phí hành chính và quản lý của công ty nhượng nhiều hay ít;
+ Kết quả bồi thường của các năm;
+ Kết quả đầu tư phí nhàn rỗi.
Thủ tục phí tái bảo hiểm được chia làm 3 loại chính như sau:
• Thủ tục phí cố định
Là một khoản tiền nhà tái bảo hiểm trả cho công ty nhượng được
biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm cố định của số phí tái bảo hiểm.
• Thủ tục phí theo thang lũy tiến
Cơ sở để tính thủ tục phí theo thang lũy tiến là lấy mức thủ tục phí
cố định làm chuẩn từ đó quy định mức tăng giảm theo tỷ lệ của bồi thường.
Như vậy kết quả bồi thường càng thấp bao nhiêu thì tỷ lệ thủ tục phí tái bảo
hiểm lại tăng lên bấy nhiêu và ngược lại.
Ví dụ:
Đơn vị: %
Tỷ lệ bồi thường Tỷ lệ thủ tục phí tái
bảo hiểm

thu lại một phần lãi cho công ty nhượng trong trường hợp kết quả kinh
doanh thực tế tốt hơn nhiều so với tỷ lệ bồi thường trung bình dự kiến và để
giúp nhà tái bảo hiểm có một tỷ lệ lợi nhuận hợp lý trong nhiều năm tham
gia hợp đồng tái bảo hiểm.
6. PHÍ TẠM GIỮ
Phí tạm giữ là một khoản dự phòng riêng giúp cho công ty nhượng
có thuận lợi trong việc giải quyết bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm gốc
trước khi quyết toán đòi bồi thường của nhà tái bảo hiểm. Ngoài ra, đối với
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
1919
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
một số nước,việc tạm giữ lại một khoản phí tái bảo hiểm của nhà tái bảo
hiểm là một điều kiện quan trọng trong việc thực hiện thanh toán cân đối của
những dịch vụ tái bảo hiểm chuyển ra nước ngoài và cũng là mối quan hệ
giữa sự lãnh đạo của nhà tái bảo hiểm và khả năng thanh toán của công ty
nhượng.
Thông thường trong thực tế khoản dự phòng này được tính bằng
một tỷ lệ phần trăm cố định của phí tái bảo hiểm toàn phần (khoảng từ 35-
40%). Phí tạm giữ của năm nghiệp vụ bảo hiểm này sẽ được hoàn trả cho
nhà tái bảo hiểm vào thời điểm tương ứng của năm kế tiếpvà được tính thêm
một khoản lãi suất nhất định (từ 3-5%).
Trong trường hợp nếu nhà tái bảo hiểm rút lui không tiếp tục tham
gia tái bảo hiểm cho hợp đồng năm tiếp theo nữa,trách nhiệm của nhà tái bảo
hiểm sẽ được giải quyết theo một trong hai cách sau:
+ Hoặc tiếp tục chịu trách nhiệm đối với những rủi ro còn hiệu
lực cho tới khi chấm dứt toàn bộ những rủi ro được bảo hiểm trong năm
nghiệp vụ bảo hiểm đó;
+ Hoặc thỏa thuận chuyển giao toàn bộ phần trách nhiệm còn
tồn tại sang cho nhà tái bảo hiểm mới tham gia cho năm tới.
7. QUẢN LÝ HỢP ĐỒNG

con người đã đưa ra nhiều biện pháp,trong đó có bảo hiểm. Bảo hiểm là một
trong những biện pháp tài trợ rủi ro, bù đắp thiệt hại về mặt tài chính khi rủi
ro bất ngờ xảy ra, được coi là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro
gây ra có hiệu quả nhất. Hoạt động của các ngành kinh tế nói chung và hàng
hải nói riêng không thể tách rời với hoạt động của bảo hiểm nói chung và
bảo hiểm hàng hải nói riêng.
Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật các phương tiện giao thông vận tải cũng ngày một được
cải tiến và hiện đại hơn góp phần quan trọng vào sự phát triển giao lưu
thương mại quốc tế. Ngành vận tải biển được đánh giá đóng một vai trò
quan trọng, được coi là mạch máu lưu thông của thương mại quốc tế. Theo
số liệu thống kê có tới 90% lượng hàng hóa được chuyên chở bằng đường
biển vì vận chuyển bằng đường biển có nhiều điểm thuận lợi như chở được
khối lượng hàng hóa lớn,cồng kềnh như các hàng siêu trường,siêu trọng,chở
được nhiều chủng loại hàng khác nhau từ đó dẫn tới giá thành vận chuyển rẻ
so với những ngành vận tải khác. Tuy nhiên lại có nhược điểm lớn là hành
trình thường kéo dài,tốc độ vận chuyền chậm,dễ chịu tác động của các rủi ro
tự nhiên gây ra tổn thất với giá trị lớn. Do hoạt động gần như độc lập,lênh
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2121
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
đênh trên biển nên việc ứng cứu,hạn chế tổn thất gặp nhiều khó khăn. Ngành
vận tải biển vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong ngành vận tải thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng mặc dù theo thống kê của các hãng sản xuất và
sửa chữa,hàng năm trên thế giới có khoảng 7.000 vụ tai nạn tàu biển làm
thiệt hại hàng tỷ đôla.
Hiện nay, đội tàu biển quốc gia Việt Nam có khoảng 970 tài với
tổng trọng tải đạt 2,85 triệu USD, xếp thứ 60/152 quốc gia có tàu mang quốc
tịch và xếp thứ 4/11 nước ASIAN. Con số 970 tàu mang quốc tịch Việt Nam
này không phải là nhiều song cũng không hẳn là quá ít. Ngành vận tải biển

Theo cách thức này,thay thế việc phát triển cạnh tranh,cổ phần,bảo hiểm tiền
mặt và cam kết sẽ bồi thường cho chủ tàu trong trường hợp tàu mất tích.
Những công ty bảo hiểm này đã tạo lập một quỹ chung dùng để thanh toán
cho người được bảo hiểm khi xảy ra tổn thất.
Bảo hiểm hàng hải là một trong những hình thức bảo hiểm đầu
tiên. Có thể nói cho vay mạo hiểm là một hình thức ban đầu của bảo hiểm
hàng hải,trong đó người cho vay cung cấp tài chính cho một chuyến đi biển
dựa trên sự an toàn của con tàu đó. Điều này có thể thấy ở thời xưa những
người Babilon, người Phonixi và người Hindu cổ đại đã thực hiện hình thức
cung cấp tài chính này. Ngày nay,vay mạo hiểm chỉ được sử dụng như một
biện pháp khẩn cấp nhằm hoàn thành một chuyến vận chuyển bằng đường
biển.
Lịch sử cho thấy người La Mã là những người đầu tiên sử dụng
bảo hiểm hàng hải để tránh các tổn thất do hiểm họa của hàng hải gây ra.
Cách thức bảo hiểm này còn được phát triển trong lĩnh vực quân sự khi
những người cung ứng hậu cần quân đội yêu cầu nhà cầm quyền La Mã chấp
nhận bồi thường tổn thất gây ra do chiến trận hoặc do điều kiện thời tiết bất
lợi. Hình thức bảo hiểm hiện đại được phát triển từ thế kỷ XIII ở Italia. Bản
hợp đồng bảo hiểm hàng hải cổ nhất được ký kết vào ngày 23/10/1347 bảo
hiểm cho tàu buôn SantaClara trong hành trình từ Genoa đi Majoca. Đến thế
kỷ XVII,hình thức bảo hiểm của tư nhân đã phát triển ở nước Anh và trong
những thế kỷ tiếp theo các công ty bảo hiểm hàng hải cá nhân thường không
có khả năng đảm bảo toàn bộ giá trị của chuyến đi. Do đó các nhà buôn tự
cảm thấy không được an toàn,và để đáp ứng nhu cầu này những chủ tàu đã
thành lập câu lạc bộ của mình là tập hợp nhiều nhóm chủ tàu và đã thực hiện
bảo hiểm một cách hiệu quả các tàu biển của nhau. Ngày nay những công ty
bảo hiểm vẫn còn áp dụng dịch vụ của mình dựa trên nguyên tắc cộng đồng
các thành viên để bảo hiểm cho nhau.
Đầu tiên,mức bồi thường bảo hiểm chỉ có giới hạn tới giá trị của
tàu đã bảo hiểm. Do đó chủ tàu phải có tiềm lực để bảo đảm trách nhiệm bồi

III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT
THÂN TÀU
1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA TÁI BẢO HIỂM VẬT CHẤT
THÂN TÀU

Tàu thủy là một phương tiện vận tải có giá trị rất lớn và phạm vi
hoạt động rất rộng bởi vậy trong quá trình hoạt động tàu thường gặp nhiều
tai nạn rủi ro, gây thiệt hại không những cho bản thân con tàu và còn cho cả
người khác, làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ tàu,chính vì vậy các
nghiệp vụ liên quan đến bảo hiểm tàu thủy ra đời từ rất sớm, trong đó có
nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân tàu. Nghiệp vụ bảo hiểm này ra đời tích
cực góp phần làm ổn định tài chính, ổn định sản xuất kinh doanh cho các đội
tàu và những người đi trên tàu.
Nguyễn Tuấn Anh - Bảo hiểm 46A
2424
Chuyên đề thực tập Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh rủi ro thông qua việc xác định
phí bảo hiểm đóng trước dựa trên xác suất rủi ro dự tính theo số liệu thống
kê quá khứ, tuy nhiên nhà bảo hiểm có thể phải đối mặt với rủi ro của chính
mình, khi xác suất rủi ro dự tính không đúng với xác suất rủi ro thực tế dẫn
đến phí bảo hiểm thu được không đáp ứng khả năng chi trả, bồi thường vì
vậy để bảo vệ cho chính mình, các công ty bảo hiểm đã sử dụng các hình
thức phân tán rủi ro, đó là đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm, trong đó có tái
bảo hiểm vật chất thân tàu vì trong nghiệp vụ bảo hiểm này mỗi khi có rủi ro
xảy ra thiệt hại sẽ là rất lớn. Hình thức này sẽ làm giảm chi phí bồi thường
cho công ty bảo hiểm gốc, rủi ro sẽ được phân tán cho các nhà bảo hiểm
đồng thời cũng tạo tâm lý an toàn cho người tham gia bảo hiểm.
2. CÁC PHƯƠNG PHÁP TÁI BẢO HIỂM ÁP DỤNG
Hiện nay thị trường tái bảo hiểm Việt Nam áp dụng cả hai phương
pháp tái bảo hiểm như trên:


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status