Giới thiệu chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản vô hình - Pdf 65

GIỚI THIỆU CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ VỀ TÀI SẢN VÔ
HÌNH

Trương Hoàng Hùng
(Công ty Kiểm toán và Tư vấn Tài chính Kế toán Sàigòn) TỔNG QUAN

Các tài sản dài hạn mang lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp nhiều kỳ trong tương lai. Các tài
sản dài hạn được phân thành 2 loại cơ bản : hữu hình và vô hình. Tài sản hữu hình có biểu hiện
hình thái vật chất, trong khi tài sản vô hình thì không.
Giá trị tài sản vô hình là các quyền, các đặc quyền, đặc lợi mà chủ sở hữu có được trong hoạt
động kinh doanh. Tài sản vô hình có thể được phân loại như sau :
1. Tài sản có thể nhận diện
2. Tài sản không thể nhận diện (ví dụ như lợi thế thương mại).
Tài sản có thể nhận diện bao gồm các phát minh, sáng chế, bản quyền, nhãn hiệu hàng hóa,
khách hàng thường xuyên, tên thong mại và các quyền cụ thế khác mà chủ sở hữu có được mà
không cần thiết phải chuyển đổi thành tài sản có hình thể vật chất.
Lợi thế thương mại, một điển hình của tài sản vô hình không thể nhận diện, dù cách nào cũng
không thể chuyển sang cho chủ sở hữu mới mà không bán đi tài sản khác hoặc bán đi hoạt động
của doanh nghiệp.
Trước đây, có rất ít hướng dẫn của chuẩn mực kế toán quốc tế về chủ đề tài sản vô hình, trong khi
nhu cầu có chuẩn mực hướng dẫn chủ đề này ngày càng lớn và cấp thiết. Để đánh giá đúng tầm
quan trọng của chủ đề này ở mỗi quốc gia, cần xem xét 2 tình huống sau :
- Ở nhiều quốc gia, việc “treo lại” một số loại chi phí khá phổ biến, thí dụ như chi phí quãng
cáo, chi phí thành lập và các khoản chi phí khác tương tự. Những người ủng hộ phương pháp
này cho rằng các chi phí mang lại lợi ích cho doanh nghiệp trong tương lai. Kết quả là xu
hướng này được áp dụng rộng rãi ở nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển ; khiến cho kết quả hoạt động hiện tại của các doanh nghiệp này tốt hơn so với các
doanh nghiệp ở các nước phát triển.

trong thời hạn
tối đa là 5 năm.
Việc phân chia
cổ tức bị hạn
chế chừng nào
mà những chi
phí này không
được khấu trừ
một cách đầy
đủ.
Cũng có thể
hạch toán những
chi phí này ngày
vào bản hạch
toán phân chia
lỗ lãi.
Những chi phí
thành lập và các
chi phí phát
hành cổ phiếu
có thể được tính
trực tiếp vào tài
khoản tiền lãi cổ
phần (nếu có) để
từ đó có thể
tránh việc tính
vào phần lợi
nhuận có thể
được phân chia.
Không được

nhưng sau đó
phải hạn chế
việc phân chia
lợi nhuận. Việc
khấu trừ dần có
thể được tiến
hành trong
khoảng thời gian
tối đa là 4 năm.

Chú ý : ở hầu hết các nước thuộc EU, luật pháp cũng đòi hỏi phải có thêm phần thuyết
minh cho các chi phí này để cung cấp cho những người sử dụng báo cáo kế toán thêm
thông tin về giá trị và bản chất của các khoản mục này.

Sự ra đời của Chuẩn mực kế toán quốc tế về tài sản vô hình

3
Chủ đề về tài sản vơ hình lần đầu tiên được đề cập trong IASC, trong Exposure Draft E 50, tựa đề
là tài sản vơ hình, xuất bản tháng 6/1995. Bản dự thảo này được tu chỉnh bởi IASC, và bản dự thảo
tu chỉnh E60 được xuất bản năm 1997. Mới đây, sau thời gian dài tranh cãi, IASC đã thơng qua
chuẩn mực tài sản vơ hình (chuẩn mực 38), được áp dụng đối với các báo cáo tài chính từ 1/7/1999
trở đi. Vì chuẩn mực 38 đưa ra hướng dẫn bao trùm trên việc hạch tốn tài sản vơ hình, bao gồm cả
chi phí nghiên cứu và phát triển, chuẩn mực kế tốn quốc tế hiện tại về chi phí nghiên cứu và phát
triển, chuẩn mực số 9, được bỏ đi.
Chuẩn mực mới đưa ra tiêu chuẩn nhận diện, phương pháp đánh giá và các u cầu đối với tài sản
vơ hình. Nó cũng qui định về việc kiểm tra sự mất giá tài sản vơ hình được thực hiện một cách
thường xun
1
. Điều này đảm bảo chỉ khi tài sản còn giá trị thanh lý mới được vốn hóa và mang
sang kỳ sau. Đề cập đến thời kỳ tính khấu hao tài sản vơ hình, chuẩn mực loại bỏ quan điểm là tài

Impairment testing : Kiểm tra sự mất giá của tài sản vô hình để điều chỉnh lại giá trò nếu cần thiết. Nội
dung chi tiế`t của các quy đònh này sẽ trình bày trong phần sau.

4
- Có những tài sản có tồn tại hình thể vật chất, chẳng hạn bằng sáng chế đã được công nhận,
nhưng hình thể vật chất này tự nó không cấu thành một tài sản.
- Một số tài sản vô hình được chứa đựng trong một hình thể vật chất, chẳng hạn như đĩa CD
(trong trường hợp, phần mềm ghi trên đĩa CD)
- Tài sản có thể nhận diện là kết quả của hoạt động nghiên cứu và phát triển được xem là tài sản
vô hình bởi vì các kiểu mẫu hay mô hình là thứ yếu còn kiến thức mới là sản phẩm chủ yếu
của những hoạt động này.

Các tiêu chuẩn nhận diện
Tài sản vô hình có nhiều điểm tương tự tài sản hữu hình dài hạn (bất động sản, đất đai, thiết bị
máy móc) và vì vậy, việc ghi chép, hạch toán chúng cũng rất giống TSCĐ hữu hình. Tiêu chuẩn
chính để nhận diện tài sản vô hình :
1. TSVH có được xác định tách rời vớiø những hoạt động khác của doanh nghiệp?
2. Việc sử dụng của TSVH có được kiểm soát bởi doanh nghiệp như một kết quả của các hành
động và sự kiện quá khứ?
3. Doanh nghiệp có được những lợi ích kinh tế mong đợi mang đến trong tương lai hay không?
4. Nguyên giá tài sản được xác định đáng tin cậy hay không?
Khả năng có thể nhận diện. Theo như vấn đề đầu tiên, mối quan tâm chủ yếu là phân biệt những
tài sản vô hình này với lợïi thế thương mại phát sinh từ việc sáp nhập doanh nghiệp, vấn đề này đã
được giải quyết bởi IAS 22. Lợi thế thương mại là giá trị vượt trội của một doanh nghiệp được sáp
nhập mà giá trị này không thể đưa vào các tài sản hữu hình, các khoản nợ phải trả hay các tài sản
vô hình có thể nhận diện. Không giống như các tài sản vô hình có thể nhận diện, lợi thế thương
mại không thể tách rời với tài sản ( kể cả tài sản vật chất và tài sản vô hình có thể nhận diện) mà
nó đi cùng khi mua tài sản này. Bởi vì lợi thế thương mại không thể bị cắt rời hoặc đem bán, giá trị
thực của nó là một vấn đề tranh luận và thời gian phân bổ thường được rút ngắn đến mức có thể.
Để vốn hóa chi phí của tài sản vô hình không phải là lợi thế thương mại, chi phí này phải tồn tại

Chi phí của tài sản vô hình được mua riêng biệt thì cũng được tính như cách sử dụng cho tài sản
hữu hình. Chi phí này sẽ bao gồm giá mua và các chi phí liên quan trực tiếp nhằm mục đích để đưa
tài sản vào sử dụng.
Trong một số trường hợp, tài sản vô hình có thể nhận diện được mua như một phần của việc sáp
nhập doanh nghiệp hay việc mua trọn gói. Theo các điều khoản của IAS 38, chi phí tài sản vô hình
được mua đi cùng với việc sáp nhập doanh nghiệp là giá trị hợp lý của nó vào ngày sáp nhập. Nếu
như tài sản vô hình có thể mua bán tự do trên thị trường hoạt động thì giá trên thị trường là thước
đo chính xác nhất. Nếu tài sản vô hình không có thị trường hoạt động thì khi đó chi phí này sẽ
được tính bằng cách dựa trên số tiền doanh nghiệp trả cho tài sản vào ngày mua tài sản (một cách
khách quan, độc lập). Nếu chi phí tài sản vô hình được mua như một phần của việc sáp nhập doanh
nghiệp không thể được ghi nhận một cách đáng tin cậy thì tài sản đó sẽ không được ghi nhận mà sẽ
xem như là lợi thế thương mại.
Lợi thế thương mại tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp sẽ không được ghi nhận như là tài sản vô
hình bởi vì nó không đáp ứng điều kiện ghi nhận :
- Có một phương pháp đo lường giá trị có thể tin cậy được
- Tách biệt rõ ràng với các nguồn lực khác, và
- Có thể kiểm soát bởi đơn vị
Trên thực tế, người kế toán thường gặp phải mong muốn ghi nhận lợi thế thương mại tạo ra trong
quá trình hoạt động dựa trên lý luận rằng ở vào một thời điểm nào đó giá trị thị trường của doanh
nghiệp sẽ vượt qua giá trị còn lại trên sổ sách của các tài sản có thể nhận diện. Tuy nhiên, IAS 38
đã chỉ ra rằng những sự khác biệt như vậy không thể được xem như là một giá trị của tài sản vô
hình được kiểm soát bởi doanh nghiệp, và do đó nó không đáp ứng điều kiện ghi nhận ( ví dụ như
vốn hóa...) tài sản đó trên sổ sách đơn vị.
Tài sản vô hình có được thông qua các phương tiện tài trợ của chính phủ. Nếu như tài sản vô
hình có được mà không phải tốn chi phí, ví dụ như các quyền được cấp bởi chính phủ ( ví dụ như
cấp quyền sử dụng đài phát thanh) hay các chương trình tương tự, giả sử phương pháp giá gốc
được sử dụng, rõ ràng là không có hay có rất ít giá trị được phản ảnh. Do đó, IAS 38 đã tham chiếu

6
IAS 20 về “Kế toán các khoản trợ cấp từ chính phủ” cho phép đơn vị được lựa chọn một trong hai

nhan đề, tên phát hành, danh sách khách hàng và các khoản khác tương tự như vậy.
Cùng với việc ban hành IAS 38 - Chuẩn mực về tài sản vô hình, IASC đã đồng thời bãi bỏ IAS 9 -
Chuẩn mực về chi phí nghiên cứu và phát triển. Lý do là các chuẩn mực có hiệu lực đồng thời, nếu
một tài sản vô hình đạt các điều kiện yêu cầu của cả hai chuẩn mực sẽ tạo ra một sự nhầm lẫn. Ví
dụ chương trình phần mềm là kết quả các hoạt động nghiên cứu và phát triển sẽ chịu sự chi phối
của IAS 9, trong khi đó chương trình phần mềm đã có bằng phát minh sáng chế cũng đáp ứng các
điều kiện ghi nhận của tài sản vô hình. Để tránh sự nhầm lẫn do sự khác biệt áp dụng phương pháp
kế toán giữa hai chuẩn mực, IASC đã quyết định đúng đắn là kết hợp 2 chuẩn mực lại thành một.
Khi tài sản vô hình tạo ra trong quá trình hoạt động đáp ứng điều kiện ghi nhận, thì giá trị được
xác định sẽ sử dụng cùng một nguyên tắc như đối với tài sản được mua. Do đó chi phí sẽ bao gồm
toàn bộ chi phí có liên quan đến việc tạo ra, sản xuất và chuẩn bị cho tài sản đó vào hoạt động. IAS


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status