Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh nhno&ptnt tây hà nội - Pdf 89

MỤC LỤC
LỜI MỞ
ĐẦU............................................................................................................................
...............1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG VÀ CHẤT
LƯỢNG TÍN DỤNG........3
1.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thơng mại (NHTM)...........................3
1.1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của NHTM....................................3
1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.............................................................3
1.1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng.................................................................7
1.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại....................................12
1.1.2.1. Tín dụng – Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế...........12
1.1.2.2. Các loại hình thức tín dụng..........................................................................14
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thơng mại........................................17
1.2.1. Khái niệm...................................................................................................17
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng...............................................19
1.2.2.1. Hoạt động tín dụng xét ở góc độ hoạt động của ngân hàng....................19
1.2.2.2.Chất lượng tín dụng ngân hàng dưới góc độ họat động của doanh
nghiệp...................................................................................................................21
1.2.3. Các nhân tố ảnh hởng đến chất lợng tín dụng ngân hàng......................21
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng.............................................................22
1.2.3.2. Nhân tố thuộc về doanh nghiệp...............................................................23
1.2.3.3. Các nhân tố khách quan khác.................................................................24
CHƠNG II: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT TÂY
HÀ NỘI....................................................26
2.1. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ.....26
2.1.1. Giới thiệu khái quát về Chi nhánh.........................................................26
2.1.1.1. Sự hình thành NHNo&PTNT Việt Nam và Chi nhánh NHNo & PTNT
Tây Hà Nội ..........................................................................................................26
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội...................27

3.2.2 .Công tác tính dụng điều hành hoạt động kinh doanh.............................53
3.2.3. Giải pháp phát triển thị phần....................................................................54
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra kiểm toán nội bộ......................................54
3.3. Một số kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam.........................................54
3.3.1. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam....................................................54
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nớc...........................................................55
3.3.3 Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nớc......................
KẾT LUẬN.........................................................................................................57
LỜI NÓI ĐẦU
Với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một nền kinh tế nào thì vốn luôn là yếu tố
hàng đầu quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua gần 15
năm đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được
uy tín, chinh phục được mọi thị trường, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần
nâng cao vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa,
các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo pháp luật. Nhiều loại
hình doanh nghiệp ra đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay
gắt giữa các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh
nghiệp phải luôn luôn đổi mới công nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Theo dự tính trong tương lai thì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhằm đáp ứng
yêu cầu của sản xuất kinh doanh tạo ra năng lực mới, nâng cao khả năng cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Để hoạt động kinh doanh phát triển và cạnh tranh được trên
thị trường các doanh nghiệp cần phải đầu tư một lượng vốn không nhỏ, mà vốn tự
có của doanh nghiệp chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn của họ. Đặc biệt là đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp thiết. Vì
vậy ngân hàng chính là nơi mà các doanh nghiệp này tìm đến để giải quyết các khâu
về vốn.
Tín dụng của các ngân hàng thương mại là một trong những hình thức sử
dụng vốn đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng. Tuy nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp

vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết
hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa
khẩu hoặc trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc tiền, đổi tiền, thực hiện kinh
doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là
chênh lệch giá mua-bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề
cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất
trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn... nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện
luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng
đa dạng hoá loại tiền, tăng qui mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ
hộ nhiều người khác là đièu kiện để thực hiên thanh toán hộ và thanh toán không
dùng tiền mặt. Với những ưu điểm của mình thanh toán không dùng tiền mặt đă thu
hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn.
Trong đIều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng) các chủ cửa
hàngvàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng loại này
gọi là ngân hàng của những thợ vàng.
Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ người cho vay nặng lãi. Một số người
cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ tiền và thanh toán hộ.
Các ngân hàng đầu tiên dùng vốn tự có để tài trợ cho hoạt động của họ,
nhưng điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, các chủ ngân hàng nhận thấy
thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, xong tất cả người gửi
đều không cùng rút tiền một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên ở ngân hàng. Do
tính chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi
của khách để cho vay. Hoạt động cho vay tạo lên lợi nhuận lớn cho ngân hàng, do
vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả
lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng
huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi
suất cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế.
Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng, các dịchv ụ hoặc vai trò

hàng gọi là ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng thương mại được hình thành
xuất phát từ tư bản thương nghiệp, và gắn liền với qúa trình luân chuyển của tư bản
thương nghiệp. Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống
của ngân hàng như huy động tiể gửi, thanh toán, cất trữ hộ và cho vay. Tuy nhiên,
đIểm khác biệt giữa ngân hàng thương mại và các nhà buôn vay dưới hình thức
chiết khấu thương phiếu. Đây là các khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình
luân chuyển của hàng hoá với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận tạo ra do sử dụng tiền
vay. Để đảm bảo an toàn, ngân hàng thương mại ban đầu không cho vay đối với
nguời tiêu dùng, không cho vay trung và dài hạn, không cho vay đối với nhà nước.
Sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho người
gửi tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi . Ngân hàng này
không cho vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy chi phí. Đồng thời tại
mỗi nước, trong những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại ngân
hàng khác nhau như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư,
ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà Nước)... tạo nên hệ thống các ngân hàng.
Trong đó trừ ngân hàng trung ương có chức năng xây dựng và quản lý chính sách
tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn lại dù có mốt số nghiệp vụ khác nhau song đều
có đắc điểm là kinh doanh tiền tệ và tín dụng.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có
những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và
các hoạt động ngân hàng, Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung
vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng
vai trò quản lí nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc
sở hữu nhà nước; ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh
trong những năm cuối thế kỷ 20. Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn được giữ bên
cạnh những nghiệp vụ mới ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ
cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu
tư vào bất động sản. Nhiều ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng
khoán, cho thuê... Các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú. Các loại hình
tiền gửi khác nhau đựơc đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên

vụ.
b). Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi
cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền
gửi thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để
bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để
tìm và dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là
phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt
và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những
kỷ lục về lãi suất, chẳng các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu
hút các khoản tiền tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tầu ở Địa
Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Như vây, khi cung cấp
dịch vụ nhận tiền gửi ngân hàng thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt
động sử dụng tiền gửi đó.
c). Cho vay.
* Cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là
cho vayđối với người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để
lấy tiền trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người
mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Cho vay tiêu dùng
Tronggiai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bơỉ vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ
tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho
vay đã hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại
hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển
*Tài trợ cho dự án.
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày
càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy,

Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở
thành trọng tâm chú ý của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp
bách trong khi thu không đủ, chínhphủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản
cho vay của ngân hàng. Ngày nay, chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và
kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện
là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài
trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ
nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
h). Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do
ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh
cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng
và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu
hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng
khác ...
i). Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn. Nhiều
hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể
mua( do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho
khách hàng quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng
thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện
khách hàng phải trả tới hơn 70% hoặc100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho
thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín
dụng trung và dài hạn.
j). Cung cấp dịc vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia
về quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản
lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ
thác vay hộ , uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư... Thậm chí, các
ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho

Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá
bán trao tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu.
Quan hệ mua bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì
vậy nó không đáp ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất
hàng hoá. Mặt khác, do đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội
thường xuyên xuất hiện hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và
nhu cầu thiếu vốn ở các tổ chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh
do có sự chênh lệch về thời gian sử dụng vốn của tổ chức hay cá nhân đó. Trong khi
đó số lượng các khoản thu nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái
sản xuất đòi hỏi phải được tiến hành liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì
chỉ có ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải
quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng –
một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa
là người cho vay”.
Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân
hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất
kinh doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng phân
phối lại vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.
Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu
cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Có thể thấy rõ hơn khái niệm về tín dụng ngân hàng qua ví dụ sau :
Với lợi thế về du lịch Việt Nam đang ngày càng thu hút nhiều du khách nước ngoài
“trở thành điểm đến của thiên niên kỷ mới”, do vậy số lượng khách du lịch đến
Việt Nam sẽ tăng lên. Nếu biết tận dụng cơ hội này thì việc xây dựng nên khách sạn

đây là một số cách phân chia mà Ngân hàng thường sử dụng khi phân tích và đánh
giá.
a). Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, nó có thể
được vay cho những sinh hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-3 năm. loại tín
dụng này thường dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và
biến đổi kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu
hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dung có thời gian từ 3 năm trở lên. Loại
tín dụng này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: Đầu tư xây
dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và
mở rộng sản xuất có quy mô lớn
Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một
phần bổ sung cho vốn lưu động.
b). Phân loại theo mục đích:
Theo tiêu thức này thì tín dụng ngân hàng được phân chia rất đa dạng và phong
phú:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay Nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, con giống, lao động, ...
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền. Ngày nay Ngân hàng còn cho vay để trang trải các
khoản chi phí thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín dụng tiêu

f). Phân loại theo xuất xứ vốn vay.
Có loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại cho vay gián tiếp tức là ngân
hàng mua lại nợ từ chủ nợ khác.
g). Phân loại theo hình thức giá tự có .
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng được
thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản - loại này được áp dụng phổ biến dưới hình thức
tài trợ thuê mua.
h). Phân loại theo thành phần kinh tế.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tê ngoài quốc doanh.
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là
tín dụng ngân hàng).
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hưởng theo nhiều nghĩa khác nhau: ngay
cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng nội
dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiêu theo các nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ dịch chuyển quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm
sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp dịch chuyển
quỹ từ người cho vay sang người đi vay.
+ Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ
sở hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán
hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán hàng chuyển
giao hàng cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua phải
trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch của ngân hàng và các định chế tài
chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là
ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay
phải thanh toán vốn gốc và lãi.

dụng như hợp động tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay
cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Hoạt động tín dụng xét ở góc độ hoạt động của ngân hàng
Các khoản tín dụng của ngân hàng có chất lượng tốt khi hiệu quả sử dụng
vốn cao, an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ thể sử dụng đồng thời mang
lại một mức lợi nhuận nào cho ngân hàng. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá chất
lượng tín dụng đối với ngân hàng:
a) Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng và mức độ rủi ro
- Tỷ lệ nợ quá hạn.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là phần còn lại mà đến hạn hoặc có thêm thời gian gia hạn vẫn
chưa đủ thu hồi được.
- Tổng dư nợ quá hạn trong kỳ và tổng dư nợ quá tích lũy.
- Cơ cấu nợ quá hạn “theo tuổi”: Phân nhóm nợ quá hạn theo thời gian quá
hạn và theo khách hàng, ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chuyển sang nợ khó đòi. Chi tiết
nợ quá hạn theo tuổi sau:
+) Tên khách hàng.
+) Tổng dư nợ.
+) Qúa hạn dưới 3 tháng.
+) Qúa hạn dưới 3-6 tháng.
+) Quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm
+) Quá hạn trên 1 năm
- Tỷ lệ phần trăm nợ quá hạn theo tuổi.
- Tỷ lệ nợ quá hạn trong kỳ: Cùng với tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ thu hồi nợ quá
hạn cho ta biết mức độ quản lý nội bộ đối với nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ thu hồi nợ quá
hạn nhỏ thì thực tế Ngân hàng có thể đang đứng trước một rủi ro mất một lượng
vốn lớn cho vay. Tỷ lệ này có thể xác định bằng công thức:

1.2.2.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng dưới góc độ họat động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng vốn nên đối với họ chỉ
tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng là doanh thu từ khỏan vay ngân hàng,
lợi nhuận tăng lên nhờ việc sử dụng vốn vay ngân hàng... Ngoài ra nó còn thể hiện ở
chỗ nhờ có số tiền vay ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ nâng
cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh, củng cố vị thế
doanh nghiệp trên thị trường, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống công nhân.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh
nghiệp ( cả về ngân hàng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh) ta phải hiểu rõ các
nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng để từ đó phát huy những ảnh
hưởng tích cực cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác cả ngân hàng và
doanh nghiệp phải cố gắng linh hoạt để phù hợp với quy định của Nhà nước trong
hoạt động tín dụng. Có như thế thì cả ngân hàngvà doanh nghiệp mới để ra các biện
pháp đúng đắn, cụ thể, linh hoạt để đạt được mục tiêu hoạt động của mình một cách
tốt nhất. Sau đây chúng ta lần lượt nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng ngân hàng thuộc về ngân hàng và doanh nghiệp.
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó có ý nghĩa
quyết định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín dụng phải phù
hợp với đường lối phát triển kinh tế của đảng và nhà nước, đồng thời kết quả hài
hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và người sử dụng vốn vay.
Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực
tiễn.
- Thông tin tín dụng.
Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định
cần thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín
dụng, nâng cao hiệu quả tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ nguồn
thông tin sẵn có của ngân hàng từ thông tin tín dụng(CIC), từ khách hàng, từ đối thủ

Do trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế về học vấn, kiếm thức
cũng như kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi họ không dự đoán được những biến
động của thị trường, yếu kém Marketing sản phẩm... Do sự bảo thủ của nhiều nhà
quản lý không dám đổi mới khiến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không có
hiệu quả, dẫn đến tình trạng không thu hôi hết được vốn và làm ảnh hưởng đến hiệu
quả của doanh nghiệp từ đó ảnh hưỏng đến chất lượng của khoản tín dụng đã sử
dụng.
- Đạo đức của người đi vay:
Ngân hàng chỉ quyết định cho vay sau khi đã phân tích kỹ các yếu tố có liên
quan đến khả năng của người vay trong việc hoàn trả nợ và cách thức sử dụng vốn
vay. Nhưng thông tin này có thể bị thay đổi sau khi doanh nghiệp nhận được tiền
vay. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng vốn vay không hợp lý dẫn đến không
đạt đựơc hiệu quả sản xuất kinh doanh. Còn có nhiều ngừơi có ý tham nhũng và kết
quả là hiệu quả sử dụng vốn vay Ngân hàng kém thậm chí không thu hồi được. Vì
vậy, công tác kiểm tra, giám sát của ngân hàng là rất quan trọng
1.2.3.3. Các nhân tố khách quan khác
Ngoài những nhân tố chủ quan trên còn nhiều nhân tố khách quan mà tác
động của nó cũng không nhỏ đến chất lượng của các khoản tín dụng ngân hàng.
- Tác động của môi trường kinh tế.
Đây là nhân tố luôn ảnh hưởng đến khả năng tài chính của người vay hay nói
rõ hơn là nếu môi trường kinh tế xấu làm cho hoạt động của doanh nghiệp gặp khó
khăn, ảnh hưởng đến thời hạn trả nợ và khả năng hoàn trả món vay cho ngân hàng
đo đó ảnh hưởng đến chất lượng của khỏan tín dụng đó của ngân hàng. Ngược lại
nếu môi trường kinh tế thuận lợi sẽ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp thuận lợi, thu hồi được vốn nhanh đồng thời lợi nhuận thu được sẽ
cao và từ đó khả năng trả nợ của doanh nghiệp, khỏan vay sẽ được trả đúng hạn,
khoản tín dụng ngân hàng sẽ có chất lượng tốt.
- Tác động của môi trường pháp lý:
Ngân hàng là một doanh nghiệp luôn phải hoạt động trong hành lang pháp lý
hẹp hơn bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất hay thương mại nào. Vì vậy, một hệ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status