Tài liệu Đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ” - Pdf 98

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Đề tài : Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại
NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ LuËn v¨n tèt nghiÖp

1LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong
việc đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không
chỉ có nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy
móc, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho

chính:
Chương I: TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NHTM.
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI
NHNo&PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
Chương III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng
Xuân Quế và các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt
Nam Chi nhánh Láng Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong
suốt quá trình thực tập và làm luận văn.
Hà Nội, 6 - 2003

LuËn v¨n tèt nghiÖp

3

CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá ngân hàng
thương mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế
hoạt động một cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng thương mại đã hình
thành và tồn tại như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế hàng hoá. Sản xuất lưu thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu giao lưu
giữa các vùng càng tăng, tuy nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền tệ
cũng như sự khác biệt về địa lý làm nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và
thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. Và cũng chính nhờ hoạt động

định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng
thương mại có các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách
nhiệm hoàn trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục
đích thu lợi nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân
hàng ngày càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác,
hoạt động ngân hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc
gia mà hoà nhập trong toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các
LuËn v¨n tèt nghiÖp

5

ngân hàng trong việc phát triển sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng
tạo ra rất nhiều thách thức cho các ngân hàng trong sự cạnh tranh.
Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn
có rất nhiều loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt
Nam… góp phần đa dạng hoá các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó
thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng
bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng hoạt động kinh doanh.
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.

đặc biệt với món vay lớn, thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân
chia tín dụng ra nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường
xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc
sinh lời thấp nhưng tính lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân
hàng phải duy trì tài sản này ở mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính
thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh lời.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng
khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng
thanh toán cho ngân hàng.
Hoạt động trung gian
Hoạt động trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng
một loạt các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng
thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng
khoán, quản lý hộ tài sản, tư vấn cho doanh nghiệp…
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân
hàng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng
tiến tới hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác
nhau. Vì vậy các dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng
thêm như: kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán,
LuËn v¨n tèt nghiÖp

7

dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê
mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ nhau một mặt
thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng.
2. Tín dụng ngân hàng.

- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay
nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là
để cho vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm
xuất phát sau một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất
của ngành ngân hàng. Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt
giá trị mà còn cần có phần tăng thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín
dụng là thu nhập người cho vay nhận được từ khoản cho vay, nó là giá cả
của hàng hoá cho vay.
2.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại
lợi nhuận chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì vậy, các
nhà ngân hàng luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ
dàng quản lý, kiểm tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu
thức khác nhau ta có thể phân loại tín dụng như sau:
 Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo
hai loại: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới
một năm và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như
phục vụ cho thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán
ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn:
LuËn v¨n tèt nghiÖp

9

Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến
năm năm. Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc,
trang thiết bị, đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy

Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng
của các hộ gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ô tô và các
phương tiện cần thiết khác.
 Căn cứ vào phương thức cho vay:
Cho vay theo hạn mức tín dụng: theo hình thức này ngân hàng và khách
hàng thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời
hạn nhất định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách
hàng thoả thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách
hàng có nhu cầu. Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết
hợp đồng sẽ được thực hiện lại từ đầu.
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn
để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một ngân hàng không
đủ khả năng hay không được phép cho vay đòi hỏi một nhóm các TCTD
cùng cho vay. Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn
xếp, phối hợp các TCTD khác để cho vay.
Cho vay trả góp: khi vay vốn ngân hàng và khách hàng xác định và
thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ
thành nhiều kỳ trong hợp đồng vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết bảo đảm
cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy
nhiên nhiều trường hợp khách hàng cần một lượng vốn lớn hơn, do đó ngân
hàng và khách hàng thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phòng lớn
LuËn v¨n tèt nghiÖp

11

hơn. Đồng thời khách hàng và ngân hàng thường phải quy định về thời hạn

đảm bảo quá trình sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp
dụng công nghệ hiện đại để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường. Từ đó các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu
thông hàng hoá đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng. Như vậy, tín
dụng ngân hàng đã biến các phương tiện hoạt động có hiệu quả, thu hút
nhanh chóng các vật tư lao động, những tiềm năng sẵn có khác vào sản
xuất.
 Tín dụng ngân hàng giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tín dụng
ngân hàng là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Nếu muốn khuyến khích ngành nghề hay thành phần kinh tế
nào phát triển, ngân hàng sẽ thực hiện ưu đãi tín dụng với ngành nghề hay
khu vực đó. Từ đó ngân hàng sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp đó dễ
dàng tiếp cận được vốn vay ngân hàng, trở thành đòn bẩy để giúp ngành
nghề đó phát triển.
Để thực hiện được việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo mục đích đã
định, các nhà ngân hàng cần phải nghiên cứu và thực thi chính sách tín
dụng phù hợp để có thể tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Điều này đang là một vấn đề hết sức quan trọng ở nước ta, trong tình trạng
cơ cấu kinh tế hiện nay còn nhiều bất hợp lý. Đặc biệt trong quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế,chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền
kinh tế nhiều thành phần chúng ta cần phải có những biện pháp để thúc đẩy
sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại, du
lịch…bởi ở nước ta tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm quá lớn trong khi tỷ
trọng các ngành khác còn quá thấp so với các nước trên thế giới. Để làm
được điều này chính sách tín dụng đóng một vai trò hết sức quan trọng, chú
trọng vào công tác tín dụng như vậy sẽ là một biện pháp để thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
 Kích thích tính năng động linh hoạt cuả các doanh nghiệp. Trong
thời đại ngày nay, khi thông tin và công nghệ thông tin thay đổi liên tục và
LuËn v¨n tèt nghiÖp

tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại do đó đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy
xuất khấu hàng hoá là mối quan tâm của các ngân hàng trong tình hình hiện
LuËn v¨n tèt nghiÖp

14

nay. Ngân hàng với tư cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ, thông qua hoạt
động cho vay sẽ trở thành nền tảng, là người cung cấp vốn cho các nhà đầu
tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Từ đó ngân hàng sẽ trở thành đòn
bẩy thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là phương tiện
nối liền nền kinh tế các nước.
Qua đó ta thấy, tín dụng ngân hàng có một vai trò đặc biệt quan trọng
đối với nền kinh tế, là phương tiện, công cụ Nhà nước không chỉ có thể sử
dụng để quản lý, kiểm soát mà còn sử dụng để thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế, thực hiện các chủ trương của Nhà nước.
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
được phân theo thời gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời
hạn ngắn- dưới 1 năm do đó khoản vay này thường được dùng để đáp ứng
nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán hàng hoá, tài trợ, bổ
xung vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh
hoạt.
3.2. Đặc điểm.
- Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu,
mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay
thường nhỏ, nguồn vốn được quay vòng nhiều. Trong khi đó đối tượng sử
dụng vốn từ nguồn trung và dài hạn thường là những tài sản cố định có thời
gian sử dung lâu dài vì vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không
được quay vòng nhiều.

phát từ đặc trưng của ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền
gửi, mà trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn, nên để đảm bảo khả năng
thanh khoản của mình, các ngân hàng thương mại đã cho vay chủ yếu là
ngắn hạn.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

16

3.3. Các hình thức tín dụng ngắn hạn
3.3.1. Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương
mại, trong đó ngân hàng trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá
trị đáo hạn của trái phiếu trừ đi một số tiền lãi, hoa hồng và một số chi phí
khác. Tiền lãi tính từ ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu.
Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được
thanh toán số tiền đúng bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh
toán là thời hạn ngắn ( 90 đến 180 ngày).
Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình
một số tiền để sử dụng ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn.
Về nguyên tắc, ngân hàng có thể nhận chiết khấu tất cả các trái phiếu
nhưng thông thường ngân hàng thích nhất là hối phiếu.
Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân
hàng các loại giấy tờ sau:
- Đơn xin chiết khấu
- Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu.
Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt
sau:
- Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu
- Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến
thương phiếu.

- Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân
hàng.
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn
chiết khấu ngắn và ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết
khấu thương phiếu ở Ngân hàng Nhà nước.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

18

- Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào
tài khoản tiền gửi của khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân
hàng.
- Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh
toán và trong thực tế không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó
đây là hình thức cho vay ít rủi ro nhất.
Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể
gặp phải rủi ro do ba nguyên nhân cơ bản sau:
- Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo.
- Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu
hỏng dẫn đến khó khăn trong thanh toán.
- Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá
sản.
3.3.2. Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ
Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân
hàng cho khách hàng vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của
khách hàng và được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là ứng trước trên
tài khoản hoặc thấu chi.
3.3.2.1. Ứng trước trên tài khoản
Ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách
hàng vay tiền bằng cách mở và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của

séc không có tiền bảo chứng.
Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng
thương mại có thể áp dụng song không phổ biến.
Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước
Ưu điểm:
- Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút
ngay một lúc vì nhu cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu
khách hàng dùng tiền ứng trước đó vào việc thanh toán cho khách hàng
LuËn v¨n tèt nghiÖp

20

khác có tài khoản tại ngân hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng không bị
hao hụt. Mặt khác, với cách cho vay này thì ngân hàng được hưởng một
khoản lãi tính trên toàn bộ số tiền ứng trước trong suốt thời gian cho vay dù
khách hàng có sử dụng hết hay không hết số tiền đó.
- Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể
đáp ứng tính thời vụ về vốn của họ.
Nhược điểm:
- Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân
hàng khó kiểm soát việc sử dụng tiền vay của khách hàng.
- Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho
vay trong thời gian đã thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết).
3.3.2.2. Thấu chi.
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng
được sử dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản
vãng lai với một số lượng và thời hạn nhất định. Xuất phát từ việc nếu
doanh nghiệp có số dư trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi tiêu,
nhưng do một lý do nào đó mà số dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp
ứng nhu cầu chi tiêu. Trường hợp đó ngân hàng có thể xem xét chấp nhận

khoản vãng lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác.
- Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử
dụng tiền trên tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.
- Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với
nhau chưa phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử
dụng (có xuất hiện dư nợ của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng
cho vay và được tính tiền lãi trên số dư nợ đó.
- Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên
biến động vì thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo
đảm đối vật.
Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản
Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng
những thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc
cho phép vượt chi trên tài khoản vãng lai giúp cho việc cân đối ngân quỹ
mà tránh phải đi xin vay nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ, khi
LuËn v¨n tèt nghiÖp

22

mà ngay sau đó lại có những khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm
bớt việc phải trả lãi cho ngân hàng.
Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản
đáp ứng được yêu cầu của những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có
hiệu quả, do đó hầu hết các doanh nghiệp có yêu cầu sử dụng hình thức tín
dụng này nhằm điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.
Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng,
nhưng trên thực tế họ có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn
mức tín dụng đó. Trong khi ấy, ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ
số tiền và thời hạn cho vay đã thoả thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các

mua bán chịu đó trong khi đó số dư trên tài khoản của họ không đủ chi tiêu
khi đó doanh nghiệp rất cần các khoản vay ngắn hạn để giải quýêt những
khó khăn này. Trường hợp này xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên,
phải trả nợ thiếu của khách hàng, thông thường các khoản này không quá
lớn và ngân hàng có thể xem xét cho khách hàng chi vượt.
- Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền
mặt trong tương lai gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn
kinh doanh của doanh nghiệp, trường hợp này doanh nghiệp muốn sử dụng
lượng tài sản này để xin vay giải quyết khó khăn về vốn do lượng tài sản
này gây ra.
- Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng
quy mô, gia tăng hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở
rộng. Khi nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường được dự
đoán tăng cao nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để mở rộng…
3.5. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc
đẩy mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những vai
trò quan trọng nhất của tín dụng ngắn hạn. Thông qua việc cung cấp vốn tín
dụng để mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh
nghiệp mở rộng sản xuất. Nước ta đang trên đà CNH- HĐH, tuy nhiên do
LuËn v¨n tèt nghiÖp

24

đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai đoạn quá độ vì vậy sản
xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90%
tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh nghiệp
này lại là sản xuất nhỏ, nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh
lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính vì vậy, nhu cầu vay vốn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status